[Dịch] Bí Mật Columbus

Chương 4 :  CHƯƠNG 3 NHÓM DỊCH TIẾNG ANH TTV Dịch giả Biên dịch Biên tập Hiệu đính Chú thích (1) Dao rựa trong tiếng Anh là machete còn trong thổ ngữ patois của truyện là machet tức thiếu mất chữ e ở cuối chữ ***** *** * Thảo luận về truyện Góp ý cho truyện

Người đăng: Dark_Blood

Béne Rowe đang ngóng tiểng sủa của đàn chó săn thuộc giống đắt tiền của hắn. Giống chó này được du nhập lần đầu tiên từ Jamaica đến Cuba, chúng là hậu duệ của những con chó săn mà Columbus đã mang theo trên chuyến tàu vượt Đại Tây Dương. Từng có một câu chuyện khá nổi tiếng đã đề cập đến việc, trong quãng thời gian Ferfinand và Isabella gây chiến tranh để giành lại Grenada từ người Moors, chính những con chó này đã ăn thịt những đứa trẻ người Ả Rập bị bỏ rơi trước cổng các đền thờ. Chuyện này xảy ra chỉ cách một tháng trước khi tên khốn Columbus lần đầu đến Châu Mỹ. Và hắn đã thay đổi mọi thứ. "Lũ chó đang đến gần," hắn nói với hai gã đàn em thân tín nhất của mình. "Gần lắm rồi, nghe thấy tiếng sủa không? Càng ngày càng to." Hắn mở một nụ cười lộ ra hàm răng trắng tinh, thứ từng ngốn của hắn một khoản kha khá. "Chúng hay thế khi cuộc đi săn gần chấm dứt." Hắn sử dụng là sự pha trộn giữa tiếng Anh và một loại thổ ngữ địa phương, biết rằng đám người của mình sẽ cảm thấy thoải mái hơn với loại ngôn ngữ này - một sự kết hợp giữa tiếng Anh, tiếng Châu Phi và Arawak. Riêng hắn thì vẫn thích dùng loại tiếng Anh chuẩn hơn, một thói quen đã ăn sâu vào hắn từ thời còn đi học và nhờ sự ép buộc của mẹ hắn. Một nét lạ lùng cùa hai mẹ con, khi cả hai thường có ý thích cổ hủ hơn. Hai tên lính của hắn mang theo súng trường khi chúng trèo lên cao nguyên Jamaica tới chỗ những người Tây Ban Nha gọi là Sierras de Bastidas, tức những pháo đài núi. Tổ tiên của hắn, những nô lệ bỏ trốn, đã lợi dụng địa thế của những ngọn núi này như một pháo đài kiên cố để chống lại bọn chủ nô. Họ tự xưng là Katawud, Yenkunkun, Chankofi. Có người lại nói người Tây Ban Nha đã đặt tên cho họ là Cimarrons – những kẻ mọi rợ, hoang dã - hay Marrans cái danh từ chỉ những kẻ chuyên săn lợn nái hoặc lợn thiến. Một số khác lại sử dụng một từ tiếng Pháp là Marron, nghĩa là những nô lệ bỏ trốn. Bất kể nguồn gốc thế nào,trong tiếng Anh từ này được đọc chệch thành Maroons. Từ đó ngày nay vẫn còn khá thông dụng. Những thị trấn này được đặt theo tên của những người đã có công xây dựng và sáng lập ra chúng – chẳng hạn như Trelawny, Accompong, Scott’s Hall, Moore, và Chales. Những người này kết hôn với những phụ nữ Taino bản xứ, và chính họ đã khai phá, mở đường cho những nơi hoang vu chưa từng có người đặt chân đến, và thường xuyên chống trả lại những cuộc tập kích của bọn cướp biển vào Jamaica. Với họ, đồi núi đã trở thành nhà, và những cánh rừng là đồng minh. "Tao nghe thấy tiếng sủa của con Nanny Bự rồi," hắn nói với đồng bọn. "Tiếng sủa lớn nhất đó, đúng là nó rồi! Nó là thủ lãnh trong đám. Luôn luôn như thế." Hắn đặt tên con chó theo tên một nữ tộc trưởng tên Grandy Nanny(1) của dân Maroon ở thế kỷ 18, một vị lãnh tụ vĩ đại về mặt tinh thần lẫn quân sự. Hình bà ta giờ còn xuất hiện trên tờ 500 đô la Jamaica, dẫu cho đó hoàn toàn là sự phác họa của trí tưởng tượng. Không có miêu tả chính xác về chân dung của bà ta còn sót lại cho đến ngày nay – tất cả chỉ là một huyền thoại. Hắn thử hình dung cái khung cảnh cách đó khoảng nửa cây số. Lũ chó săn không kém cạnh giống chó lớn tai cụp về thân hình to lớn, sánh ngang với chó săn thuần chủng về sự nhanh nhẹn, và giống chó bun về sự dũng cảm. Bọn chúng có lớp lông cứng dày, màu hung đỏ. Cả nhóm chạy thành hàng dọc, có tất cả bốn con phía sau con chó cái Nanny Bự. Nó không bao giờ cho phép một con chó đực nào vượt lên trước. Cũng như người phụ nữ mà nó được đặt tên theo, uy quyền của nó là bất khả xâm phạm. Từng có một con chó đực dám thách thức điều đó và kết quả là nó đã dùng hàm răng đầy sức mạnh của mình để cắn nát cổ con chó kia. Hắn dừng lại bên bờ một vực cao rồi dõi mắt quan sát những triền núi xa xa được bao phủ bởi cánh rừng. Màu xanh của cây bụt chiếm một phần lớn trong những khu rừng nơi đây, cùng với với các cây doi, cây dái ngựa, cây tếch, cây dừa dại, và những dải tre rậm rạp. Hắn nắm lấy một nhánh cây sung gần đó, cành cây thật dẻo dai và ngoan cường làm sao, khiến hắn nhớ lại lời mẹ dặn khi xưa. "Cây sung vượt trội so với tất cả. Như thể muốn nói với những kẻ dám thử thách nó: 'Ngươi càng bẻ, ta càng dai.' " Hắn ngưỡng mộ sức mạnh đó. Hắn phát hiện một nhóm công nhân ở trên một triền núi khác. Họ đang xếp thành một hàng, cuốc sắt lấp lánh dưới ánh mặt trời được vung liên hồi. Hắn hình dung bản thân mình trong tình cảnh này vào ba trăm năm trước, một trong số những người da đỏ vô danh của Columbus, lao động khổ sai trong kiếp nô lệ cho bọn Tây Ban Nha. Hoặc một trăm năm sau, trong lốt một người Phi châu bán thân cho một tên chủ đồn điền người Anh. Đó từng là số phận của những người Maroons, một tộc lai giữa người Taino thuần chủng và những người Phi châu nhập cư. Giống hệt như hắn ta. "Ngài sẽ tới gặp họ phải không ạ?" tên đứng đầu trong đám đàn em hỏi hắn. Hắn biết người của hắn sợ lũ chó nhưng cũng rất ghét những tay bố già buôn ma túy. Jamaica đang bị nhấn chím trong những tội ác bẩn thỉu. Một tên bố già hiện cách đây nửa cây số đã từng nghĩ luật pháp đừng hòng chạm tới hắn, nhưng giờ đang bị rượt đuổi bởi một bầy chó săn Cuba thuần chủng và hung dữ. Đám tay sai của tên này đã biến thành phố Kingston trở thành một bãi chiến trường, lạm sát vô số người vô tội. Vụ nổ súng gần đây nhất khiến cả một bệnh viện và trường học công cộng nằm trong tuyến lửa đạn, các bệnh nhân buộc phải co mình dưới giường bệnh, còn bọn trẻ phải làm bài thi với tiếng đạn bay rít bên ngoài. Vì lý do này, Béne đã dụ gã bố già đến gặp mặt, không ai dám phớt lờ lệnh triệu hồi của Béne Rowe, rồi sau đó hắn bắt tên này vào vùng núi. "A wa yu a say?" gã bố già xấc láo hỏi bằng tiếng patois. "Nói tiếng Anh cho tao." "Mày có cảm thấy xấu hổ vì mày là ai không Béne?" "Tao xấu hổ vì mày đấy." "Thế mày định làm gì? Săn lùng tao à?" "A no mi." Không phải tao. Hắn cố tình dùng thổ ngữ để cho tên đó biết hắn chưa quên mất gốc gác của mình. Rồi hắn chỉ vào lũ chó đang sủa om xòm trong chuồng của chúng ở trên thùng xe tải. "Chúng ló sẽ nàm điều đó thay tau!" "Rồi mày sẽ làm gì? Giết tao sao?" Hắn lắc đầu. "Nũ chó sẽ nàm điều đó nuôn." Hắn cười trước đôi mắt mở to vì sợ hãi của tên khốn, và cảm thấy dễ chịu khi biết rằng tên đồ tể giết người vô tội vạ thật ra cũng biết sợ. "Mày không phải một trong đám chúng tao," gã bố già gào lên. "Mày quên mày là ai rồi Béne." Hắn bước đến rất gần, chỉ cách tấm áo sơ mi lụa hở cổ vài centimét của tên kia, chiếc quần được đặt may riêng và đôi giày đắt tiền. Hắn cho rằng bộ quần áo này chỉ để gây ấn tượng, nhưng tên khờ này cũng chẳng làm được tẹo nào. Hắn ốm nhom như một cây mía, với một mắt sáng như thủy tinh và cái mồm đầy răng sâu. "Mày chẳng là cái thá gì cả," hắn nói với gã bố già. "Đủ quan trọng để mày muốn giết tao đấy chứ." Béne cười khùng khục. "Nói cũng đúng đấy. Và nếu tao kính trọng mày chút nào, tao sẽ cho mày phát súng ân huệ. Nhưng mày là loại súc sinh mà bọn chó sẽ rất vui để vờn cuộc săn này." "Bọn chính phủ trả tiền cho mày làm thế này hả Béne? Chúng nó không làm được nên chúng đã bắt mày làm sao?" "Tự tao thấy thích thì làm thôi." Cảnh sát đã cố bắt giữ tên khốn này hai lần, nhưng những cuộc biểu tình ở Kingston đã phá hỏng cả hai lần đó. Đáng buồn thay những kẻ ác lại trở thành anh hùng trong thành phố này. Những tay bố già rất không, trong khi chính phủ Jamaica tỏ ra bất lực trong việc chăm lo đời sống người dân, những bố già này đã đứng ra làm điều đó. Nào là phát chẩn lương thực, đến việc xây dựng những trung tâm cho cộng đồng, cung cấp thuốc men và dịch vụ y tế nhằm lấy lòng dân chúng. Và điều đó đã thành công. Dân chúng sẵn sàng nổi loạn để ngăn cản những người cứu họ khỏi cảnh tù tội. "Mày có nửa tiếng trước khi tao thả chó ra." Gã bố già chần chừ, và vắt giò chạy trối chết khi biết Béne không hề giỡn chơi. Y hệt một người nô lệ chạy trốn tên chủ nô. Hắn tận hưởng một luồng không khí trong lành của vùng sơn cước đang tràn ngập trong hai buồng phổi. Vòng sương mờ màu lam, dày đặc như một sữa, bao phủ những đỉnh núi xa xa. Có ba đỉnh đạt độ cao hai ngàn mét, một đỉnh khác cao gần hai ngàn mét rưỡi. Những đỉnh núi này trải dài từ đông sang tây, tách Kingston khỏi vùng bờ biển phía bắc. Nơi này còn có những quầng ánh dương mờ ảo, đẹp đến mức những người Anh đã đổi tên cho chúng thành Blue Mountains. Hai gã lính đứng bên cạnh y, súng trường gác trên vai. "Tới chuyện khác trong ngày hôm nay," hắn nói, mắt vẫn nhìn chăm chú về phương xa. "Hắn có đến không?" "Đang trên đường tới. Họ sẽ đợi tại chỗ mấy chiếc xe tải cho đến khi chúng ta sẵn sàng." Đất đai trong bán kính mấy trăm cây số ở đây đều thuộc về hắn. Đa phần những nguời Maroon chịu canh tác trên vài mét vuông đất của người khác đều phải trả tô đất. Giờ hắn có trăm ngàn mẫu đất cho họ làm miễn phí. Những con chó tiếp tục sủa cách đó không xa. Hắn kiểm tra đồng hồ. "Nanny Bự đuổi rất gần rồi. Nó hiếm khi để con mồi chạy hơn một giờ." Dũng mãnh, chân dài và được phú cho sự bền bỉ và sức mạnh đáng kinh ngạc, những con chó săn của Béne đã được huấn luyện vô cùng kỹ lưỡng. Chúng còn leo trèo rất lão luyện, có khả năng leo được cây cao. Mục tiêu hôm nay sẽ chẳng mấy chốc bị phát hiện nếu hắn ngu ngốc cho rằng nằm trên cành cây cao sẽ tránh được lũ chó. Chủng chó săn Cuba này đã được gầy giống từ rất lâu chỉ cho một mục đích duy nhất. Truy lùng những nô lệ da đen bỏ trốn. Chó của hắn tiến bộ hơn. Săn được cả trắng lẫn đen. Nhưng hệt như tổ tiên chúng, chúng chỉ giết khi con mồi chống cự. Nói cách khác chúng chỉ sủa to khiến con mổi sợ hãi và không bỏ chạy để chờ chủ của chúng tới. "Chúng ta đến chỗ chúng thôi," hắn nói. Hắn dẫn đầu nhóm quay lại khu rừng. Không hề có đường mòn, chỉ có cây cỏ mọc dày đặc khắp nơi. Một gã rút ra một con dao rựa dài để phạt cây mở đường. Với từ đó hắn luôn cố ý dùng thổ ngữ và bỏ mất chữ e ở cuối(1). Thật là buồn cười rằng đây là cái tật hắn mãi không bỏ được . Một ngọn gió lào xào thổi qua những nhánh cây. Thật là dễ dàng để trốn giữa đám dương xỉ và lan rừng này. Không ai có thể tìm thấy nếu một người trốn vào trong đây. Đó chính là lý do tại sao người Anh cuối cùng đã nhập giống chó săn này để truy lùng những nô lệ bỏ trốn. Cấch truy tìm bằng mùi hương hiệu quả vô cùng. Họ lao theo hướng lũ chó. Người của hắn vung mạnh những thanh rựa dài, liên tục chém vào tán lá để mở đường. Những tia nắng mỏng manh, len lỏi xuyên qua những tán lá phô mình trên mặt đất. "Ngài Béne," một gã trong nhóm kêu lên. Một thảm lá cây mềm mại đàn hồi theo mỗi bước chân, êm đến mức có thể nghe được tận tiếng chim hót xa xa. Đá to nhỏ ở dưới lớp cây mục rất dễ làm hư giày, nhưng hắn đã trang bị cho mình một đôi giày bốt chuyên dụng. Hắn vất vả tìm đường xuyên qua một hàng cây thấp và tìm thấy người của hắn tại một mảnh đất trống trải. Một con cò quăm màu hồng phóng ra từ một lùm cây phía xa, đôi cánh vỗ liên hồi để bay lên. Màu hoa lan trải khắp khoảng đất trống phía dưới những tán cây cao vút lợp trời. Hắn nhận ra từng đám đá vụn rơi vãi giữa mặt đất đầy dương xỉ. Lũ chó đã bắt đầu tru lên. Báo hiệu thành công. Chúng đã dồn con mồi vào thế bí. Hắn bước lại gần và cúi xuống, khảo sát những mảnh đá, vài mảnh khá lớn và lẫn sâu trong đất, số khác chỉ là mảnh rời nhỏ hơn. Địa y và nấm mốc đã bám đầy trên bề mặt của những miếng đá, nhưng những đường nét ngoài mờ nhạt của một đoạn ký tự trên đó vẫn còn nhận ra được. Hắn nhận ra dòng chữ này. Tiếng Hebrew. "Còn ở đây nhiều lắm," đám người của hắn nói trong lúc đang tản ra tìm kiếm. Hắn biết được thứ bọn họ vừa tìm thấy. Những bia mộ. Một nghĩa trang bị chìm vào quên lãng. Hắn cười khoái trá. "Ồ, một ngày tốt lành đây các đồng chí. Một ngày tốt lành. Chúng ta đã tìm được một kho báu." Hắn liền nghĩ đến Zachriah Simon, và biết hẳn lão sẽ cảm thấy rất hài lòng. Chương trình ủng hộ thương hiệu Việt của Tàng Thư Viện:
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
www.tangthuvien.vn
 
Trở lên đầu trang