[Dịch] Witcher Saga #3: Baptism of Fire

Chương 6 : CHƯƠNG II.III

Người đăng: Htohtaza

Ngày đăng: 16:41 15-02-2020

*** Geralt đã tin chắc là đoàn lữ hành sẽ phải bỏ lại chiếc xe khi nó bị kẹt trong vũng bùn, nhưng anh đã lầm. Những người lùn khỏe như bò mộng, và con đường dẫn vào khu rừng cũng không quá rậm rạp và lầy lội. Mưa cứ tiếp tục rơi không ngừng. Milva thì luôn xưng xỉa và cáu bẳn, và mỗi khi mở mồm ra cũng chỉ để cằn nhằn rằng móng ngựa có thể vỡ bất kỳ lúc nào. Zoltan Chivay liếm môi và đáp lại rằng ông là chuyên gia nấu thịt ngựa, càng khiến cho Milva trở nên bực bội thêm. Họ giữ nguyên được đội hình di chuyển thông thường. Ở giữa là chiếc xe kéo, Zoltan đi trên đầu, Dandelion cưỡi Pegasus ở bên cạnh ông ta và cãi nhau với con vẹt. Geralt và Milva đi theo, và đằng sau họ là 6 người phụ nữ đến từ Kernow. Người dẫn đường là Percival Schuttenbach, người gnome mũi dài. Mặc dù kích cỡ và vóc dáng ông ta nhỏ hơn những người lùn, nhưng sức mạnh của ông phải ngang bằng họ và thậm chí còn nhanh nhẹn hơn nhiều. Trong khi di chuyển, ông chạy khắp xung quanh không biết mệt, sục sạo từng lùm cây, lao lên trước và biến mất, rồi đột nhiên xuất hiện đầy lo lắng, làm mấy dấu hiệu trông như khỉ đột từ đằng xa để báo mọi thứ đều ổn, và họ có thể đi tiếp. Đôi lúc ông có thể quay lại nhanh hơn và thuật lại những chướng ngại vật trên đường. Mỗi khi quay về, ông đều cho 4 đứa trẻ ngồi trên xe một nắm đầy dâu đen, hạt dẻ hay một loại khoai trông có vẻ quái dị, nhưng rõ ràng là rất ngon. Di chuyển với tốc độ như rùa bò, họ đã đi được ba ngày. Họ không vấp phải toán lính nào, và cũng không thấy đám lửa hay cột khói nào. Tuy nhiên, họ không ở một mình. Percival vài lần báo cáo lại về những nhóm tị nạn khác đang trốn trong rừng. Họ chạm trán vài nhóm, và nhanh chóng đi qua, bởi vì những người nông dân trang bị với chĩa và cọc không khuyến khích họ chạy lại làm quen. Tuy nhiên, đã có gợi ý cho rằng nên thương thuyết với họ và để nhóm phụ nữ từ Kernow lại cùng những người tị nạn khác, nhưng Zoltan phản đối ý tưởng này, và Milva ủng hộ ông. Những người phụ nữ cũng không có vẻ muốn rời đoàn lữ hành. Điều này càng khiến cho sự việc trở nên khó hiểu hơn, vì rõ ràng là đám tị nạn không ưa những người lùn và đối xử với họ có phần sợ hãi. Họ hiếm khi bắt chuyện khi đoàn dừng chân và luôn đứng ở xa. Geralt nghĩ hành vi của những người phụ nữ có lẽ bắt nguồn từ bi kịch mà họ vừa mới qua khỏi, nhưng anh nghi ngờ lý do thật sự có lẽ chỉ là do cung cách vô ý tứ của nhóm người lùn. Zoltan cùng nhóm của ông thường xuyên chửi thề và con vẹt, Nguyên soái Duda, thậm chí còn sở hữu một vốn từ vựng phong phú hơn nhiều trong phạm trù này. Họ hát những bài ca tục tĩu, mà được Dandelion nhiệt liệt ủng hộ. Họ khạc nhổ, xì mũi ra tay và đánh rắm rõ to, mà thường xuyên phá lên cười, đùa cợt và thi xem ai to hơn sau đó. Họ chỉ chạy vào bụi rậm khi cần đại tiện, còn không thì chẳng bao giờ đi xa hơn mức đó. Và Milva, người mà cuối cùng cũng không thể chịu nổi, đã mắng cho Zoltan một trận vào buổi sáng khi ông ta đang đứng tè vào đám lửa trại vẫn còn ấm, mà không thèm để tâm đến các khán giả xung quanh. Zoltan tỏ vẻ phật ý, và nói rằng những kẻ trốn chui trốn nhủi trong bụi rậm thì đều là lũ chỉ điểm và âm mưu, việc đó khiến người ta dễ dàng nhận ra rằng chúng không đáng tin và lừa lọc. Tuy nhiên, màn hùng biện thông thái này không gây ảnh hưởng chút nào đến nữ cung thủ. Cô trút lên đầu người lùn một cơn mưa những lời xỉ vả và đe dọa khá là chi tiết. Và nó có vẻ rất hiệu nghiệm, khi mà mọi người bắt đầu nghe theo và ngoan ngoãn tìm chỗ trong bụi rậm. Tuy vậy, để tránh bị coi là những kẻ lừa lọc và âm mưu, họ đi thành nhóm. Trong khi đó, đoàn lữ hành đã làm Dandelion thay đổi hoàn toàn. Nhà thơ hòa nhập cùng những người lùn như thể anh em ruột thịt, đặc biệt là khi có vài người đã từng nghe đến danh cậu và biết một vài tác phẩm của cậu. Dandelion không rời nhóm của Zoltan nửa bước. Cậu khoác một cái áo da lấy từ những người lùn, và thay chiếc mũ lông chim trên đầu bằng một cái nón đen, khiến cậu trông như một gã vô lại. Trên dải thắt lưng với khóa đồng của mình, cậu đeo một con dao được tặng, làm cho mình trông càng giống kẻ cướp. Con dao có thói quen cứ đâm vào háng mỗi khi cậu cúi người xuống. May mắn thay, cậu đã làm mất món vũ khí sát thủ đó và chưa tìm được cái khác thay thế. Họ lang thang trong khu rừng rậm rạp, bao phủ sườn đồi của Turlough. Khu rừng có vẻ yên tĩnh, không thấy bóng dáng muông thú. Có lẽ quân đội đã làm chúng hoảng sợ và chạy mất. Chẳng có gì để săn cả, nhưng cho đến lúc này họ vẫn chưa bị cơn đói hành hạ. Những người lùn đã mang theo rất nhiều nhu yếu phẩm. Tuy nhiên, lại có rất nhiều miệng ăn, và cũng không được lâu cho đến khi hết đồ dự trữ. Munro Bruys và Yazon Varda biến vào rừng khi trời mới còn nhá nhem, mang theo một cái bao rỗng. Khi trở lại vào buổi sáng, họ mang theo hai cái, đều đầy ự. Một cái là đồ ăn cho ngựa, cái còn lại là bột kiều mạch, bột mì, thịt bò khô, một khoanh pho mai mà gần như chưa bị chạm đến, và thậm chí là cả một tảng kindziuk lớn, một món ăn làm từ thịt bò nhồi, nặn thành hình lá phổi và được hun khói. Geralt có thể đoán món chiến lợi phẩm được lấy từ đâu. Anh không nói gì ngay lập tức, nhưng đợi đến thời điểm thích hợp. Khi đã ở một mình với Zoltan, anh lịch sự hỏi ông ta rằng cướp của những nhóm tị nạn khác, mà cũng đói khát và đấu tranh vì sinh tồn không khác gì họ, có thật sự đúng đắn không. Người lùn nghiêm túc trả lời rằng, phải, ông thấy rất xấu hổ, nhưng suy cho cùng thì đó là một phần của tự nhiên. “Tật xấu của tôi,” ông giải thích, “là bản tính luôn muốn làm điều thiện. Tôi phải làm điều thiện. Tuy nhiên, tôi cũng là người thực tế, và tôi biết rằng mình không thể đối tốt với tất cả mọi người. Nếu tôi cố tử tế với cả thế giới và những cư dân lương thiện của nó, thì cũng chỉ như muối bỏ bể. Nói theo cách khác, là một sự lãng phí. Do đó tôi quyết định hành động thực tế hơn, để nó không hoàn toàn phí hoài. Tôi đối tốt với bản thân và những người thân cận với tôi trong lúc này.” Geralt không hỏi thêm gì nữa. *** Trong một lần dừng chân, Geralt và Milva tán gẫu với Zoltan Chivay, người lùn vị tha với bản tính lương thiện khó sửa. Ông tỏ ra khá rành rõi về tình hình chiến sự hiện tại, hay ít nhất thì có vẻ như vậy. “Cuộc tấn công,” ông trả lời, liên tục cố gắng át đi tiếng của Nguyên soái Duda, lúc này đang chửi bới loạn xạ, “đến từ Drieschot. Nó bắt đầu vào rạng sáng ngày thứ bảy sau Lammas. Quân đội Verdan hành quân cùng Nilfgaard, bởi vì như anh đã biết, Verden giờ đã nằm dưới sự bảo hộ của Đế chế. Chúng di chuyển thần tốc, để lại toàn bộ các ngôi làng từ Drieschot cho đến Brugge chỉ còn là một đống tro tàn, và đập tan lực lượng đồn trú tại đó. Bộ binh Nilfgaard đã bí mật vượt qua Yaruga và chiếm pháo đài Dillingen khi họ không đề phòng. Chúng đã xây một cây cầu bằng thuyền chỉ trong có nửa ngày, anh tin nổi không?” “Giờ thì chúng tôi tin mọi thứ,” Milva lầm bầm. “Các ông đã ở Dillingen, khi nó bắt đầu?” “Chúng tôi ở trong khu vực đó,” người lùn nói tránh. “Khi có tin báo về một cuộc xâm lược, chúng tôi đã đang trên đường tới Brugge. Những con đường đúng thật lộn xộn, đầy nhóc dân tị nạn, một số người bỏ chạy khỏi phía Nam để lên phương Bắc, một số thì ngược lại. Họ làm tắc hết cả đường, và chúng tôi kẹt cứng ở đó. Chúng tôi cũng được xác nhận là Nilfgaard đang ở cả đằng trước lẫn phía sau. Nhóm quân rời đi từ Drieschot đã tách ra. Tôi có cảm giác là một lực lượng lớn đã sang phía Đông Bắc, hướng đến thành phố Brugge.” “Và giờ thì lũ Áo Đen đã đang ở phía nam Turlough. Chúng ta đang kẹt ở giữa, trên vùng trung lập.” “Đúng là ở giữa,” người lùn xác nhận. “Nhưng không phải trên vùng trung lập. Quân đội Đế chế giờ được bổ sung bởi Sóc, lính tình nguyện từ Verden và cơ số các nhóm độc lập khác, và chúng còn tồi tệ hơn cả quân Nilfgaard. Chính chúng là những kẻ đã thiêu rụi Kernow, nhưng đã không tóm được chúng tôi, và chúng tôi cũng chỉ vừa kịp chạy thoát vào khu rừng. Do đó, chúng ta không nên thò mũi ra khỏi đây. Chúng ta nên cẩn thận, tới được Đường Mòn, sau đó đi dọc bờ sông Cholta đến dòng Ina, và ở đó, chúng ta sẽ tìm thấy quân đội Temeria. Lực lượng của vua Foltest có lẽ đã hồi phục sau đợt tấn công bất ngờ và sẽ đáp trả quân Nilfgaard.” “Tôi hy vọng thế.” Milva nói, nhìn sang witcher. “Vấn đề là, chúng tôi có việc khẩn dưới phía Nam. Chúng tôi đã định xuống đó từ Turlough, hướng đến Yaruga.” “Tôi không biết lý do gì khiến các cô phải làm vậy,” ánh mắt của Zoltan tỏ vẻ ngờ vực, “nhưng chắc hẳn phải quan trọng lắm mới khiến các cô phải liều mạng như thế.” Ông ta ngừng lại, đợi một chút, nhưng chẳng có ai buồn giải thích cả. Người lùn gãi mông, ho và khạc một bãi. “Tôi sẽ không ngạc nhiên đâu,” cuối cùng ông lại tiếp tục, “nếu biết Nilfgaard đã chiếm hết cả hai bờ Yaruga và cửa sông Ina rồi. Các anh cần đến chỗ nào ở Yaruga?” “Không nơi nào cụ thể cả,” Geralt quyết định trả lời. “Chỉ cần đến bờ sông là được. Tôi muốn tìm một chuyến tàu đến cửa sông.” Zoltan nhìn anh và cười, nhưng ngay lập tức dừng lại khi nhận ra đó không phải trò đùa. “Tôi buộc phải thừa nhận,” ông nói sau một lúc, “rằng anh chắc đang nằm mơ nếu nghĩ rằng mình có thể tới được đó. Anh nên bỏ cuộc đi là vừa. Toàn bộ vùng phía nam Brugge đang bốc lửa, trước khi tới được Yaruga anh sẽ bị xiên lên một cây cọc, hoặc áp tải về Nilfgaard. Kể cả nếu có nhờ phép màu nào đó mà anh tới được con sông, anh cũng chẳng thể xuôi dòng xuống cửa sông được. Tôi đã nói với anh về cây cầu nổi bắc từ Cintra cho tới bờ của Brugge rồi. Nó được canh gác cả đêm lẫn ngày, và chẳng có ai đi qua sông bằng đường đó cả, có lẽ ngoại trừ lũ cá hồi. Vấn đề quan trọng và khẩn cấp của anh sẽ phải bỏ đi sự quan trọng và khẩn cấp của nó thôi. Anh chẳng thể đái xa hơn được thế đâu, lời khuyên của tôi đó.” Biểu cảm trên gương mặt Milva cho thấy cô đồng tình với người lùn. Geralt chẳng có gì để nói cả. Anh cảm thấy rất tồi tệ. Anh cảm giác một cơn đau âm ỉ như một hàm răng cùn đang cắn vào xương tay trái và đầu gối phải của mình, cơn đau còn tồi tệ hơn do sự mệt mỏi và độ ẩm của không khí. Anh còn nhận ra một cảm giác cực kỳ khó chịu và chán nản. Một cảm giác kỳ lạ mà anh chưa từng trải qua bao giờ, và không có cách nào đối phó với chúng. Tất cả những gì anh cảm nhận là sự bất lực và buông xuôi. *** Sau hai ngày, mưa ngừng rơi, và mặt trời chiếu sáng gương mặt họ. Được tự do khỏi làn sương đang tan đi nhanh chóng, khu rừng lại có thể hít thở, và chim chóc lại bắt đầu líu lo, quên đi vẻ u ám khi thời tiết vẫn còn xấu. Zoltan mừng rỡ và ra lệnh nghỉ chân một lúc lâu, sau đó hứa hẹn rằng đường đi từ giờ sẽ dễ hơn và họ có thể tới Đường Mòn trong nhiều nhất là một ngày. Đám phụ nữ từ Kernow phơi khô những tấm áo đen và xám lên những cành cây xung quanh, xấu hổ trốn vào bụi cây trong những chiếc quần lót, càm ràm về đồ ăn. Đám trẻ con nhếch nhác thì chạy chơi loanh quanh, làm khuấy động sự tĩnh lặng của khu rừng. Dandelion ngủ cho bớt mệt. Milva đã biến đi đâu đó. Những người lùn nghỉ ngơi, nhưng vẫn rất hoạt bát. Figgis Merluzzo và Munro Bruys đi tìm nấm. Zoltan, Yazon Varda, Caleb Stratton và Percival Schuttenbach ngồi cách chiếc xe hàng không xa và chơi “Screwed”, trò đánh bài ưa thích mà họ dành hết toàn bộ thời gian rảnh để tham gia, kể cả những tối trời mưa. Witcher đôi khi ngồi cùng và cổ vũ họ, như anh đang làm bây giờ. Anh vẫn chưa hiểu được luật lệ phức tạp của trò chơi, nhưng thấy cuốn hút bởi những lá bài tuyệt đẹp được vẽ rất tỉ mỉ. So với bài của con người, chúng thực sự là những tuyệt tác in ấn. Geralt lại lần nữa tranh luận rằng kỹ thuật của người lùn cực kỳ tiên tiến và không hề chỉ bao gồm khai thác mỏ, luyện kim và gia công. Nếu người lùn, bất chấp khả năng của họ, không độc chiếm được thị trường giải trí thì chỉ do là người ta thích chơi xúc xắc hơn, vả lại những con bạc chẳng bao giờ thèm quan tâm đến tính thẩm mỹ. Những con bạc loài người, và witcher đã có cơ hội quan sát không chỉ là một lần, luôn dùng những bộ bài nhăn nhúm bẩn thỉu đến nỗi trước khi được đặt lên bàn, họ phải gỡ chúng ra khỏi tay. Những hình vẽ được tô cẩu thả đến nỗi chỉ có thể phân biệt được quân Công Nương với quân Hiệp Sĩ bởi vì Hiệp Sĩ ngồi trên một con ngựa, mặc dù bản thân con ngựa trông cũng giống một con chồn hơn. Những hình vẽ trên các quân bài của người lùn thì không hề mắc những lỗi đó. Đức Vua đội một chiếc vương miện thực sự quyền uy, Công Nương đẹp đẽ và gợi cảm, và Hiệp Sĩ, trang bị một cây giáo, còn mang một bộ ria mép. Trong ngôn ngữ người lùn, những quân này được gọi là Hraval, Vaina và Ballet, nhưng khi Zoltan và đoàn lữ hành chơi, họ dùng tên thông dụng của con người. Mặt trời chiếu sáng, nước bốc hơi khỏi khu rừng, Geralt ngồi cổ vũ những người lùn. Luật cơ bản của Screwed là thứ gì đó tương tự như đấu giá ngựa ở ngoài chợ, cũng như âm vực và sự căng thẳng trong giọng nói của những người chơi. Cặp có “điểm” cao nhất cố gắng úp được càng nhiều quân càng tốt, trong khi cặp thứ hai tìm mọi cách để ngăn cản. Trò chơi ngày càng ầm ĩ và bạo lực, và mỗi người chơi đều để một cây gậy to tướng ở bên cạnh. Họ hiếm khi dùng nó, nhưng thường xuyên vung vẩy qua lại. “Làm sao cậu có thể chơi được trò này với cái đầu rỗng tuếch thế hả? Điếc à? Cậu đặt bích, thay vì cơ sao? Chẳng lẽ tôi lại đặt cơ và hát cho cậu một bài opera nữa chắc? Ôi, chắc tôi nên cầm gậy và đập cho cái đầu thiểu năng của cậu một cái!” “Tôi có bốn quân bích và một quân Hiệp Sĩ, tôi tưởng là mình có điểm cao nhất rồi chứ!” “Bốn quân bích! Trừ khi cậu tính thêm cả con giun trong quần khi để bài trên lòng vào nữa. Nghĩ một chút đi, Stratton, đây có phải đại học đâu, chỉ là một trò đánh bài mà thôi! Ngay cả một con heo cũng lột sạch được đồ của một tay thị trưởng nếu có bài ngon. Chia đi, Varda.” “Một cặp cơ.” “Đồ ngu!” “Hắn đã đánh quân Vua rồi, và vãi cả ra quần kia kìa. Một cặp bích!” “Ăn!” “Cậu đang ngủ gật đấy à, Stratton. Ăn một cặp kìa! Cậu đặt cái gì?” “Một mớ cơ!” “Tăng tiền. Haa! Rồi sao? Không ai ăn à? Không có gì để nói sao, các chàng trai? Bỏ bài ra đi, Varda. Percival, ông mà còn nháy mắt với hắn lần nữa, tôi sẽ đấm ông một cái mạnh đến nỗi chẳng thể mở mắt ra được cho đến mùa đông.” “Bích.” “Hậu!” “Thêm một quân Vua nữa! Hậu của anh ăn cứt rồi! Tôi thắng, ha ha, và vẫn còn chút đồ thừa cho mấy ngày mưa! Một quân Hiệp Sĩ, một quân Vua, một cặp...” “Mười quân rô! Ai chiếm được lợi thế, ta sẽ cắt....ôi, nhảm nhí! Này, Zoltan? Ông đang xuống cấp rồi đó!” “Đồ gnome khốn khiếp. Eh, tôi sẽ lấy cây gậy này....” Trước khi Zoltan kịp có cơ hội cầm lên cây gậy của mình, một tiếng hét the thé vọng ra từ trong rừng. Geralt là người đầu tiên bật dậy. Anh vừa chạy vừa nguyền rủa, bởi vì lại lần nữa cảm nhận cơn đau trên đầu gối. Ngay phía sau anh là Zoltan Chivay, cầm theo thanh kiếm bọc da để trên xe. Percival Schuttenbach và những người lùn còn lại chạy theo họ, vũ trang bởi mấy cây gậy to tướng và cuối cùng là Dandelion, bị đánh thức bởi tiếng hét, cũng chạy theo. Từ bên cạnh, Figgis và Munro bỗng hiện ra. Ném mấy cái giỏ nấm xuống, cả hai người lùn bế lên những đứa trẻ đang chạy bát nháo. Milva hiện ra từ thinh không, rút một mũi tên và chĩa vào nơi mà tiếng hét xuất phát. Nhưng không cần thiết. Geralt đã từng nghe thấy, trông thấy, và anh biết nó là cái gì. Đứa trẻ vừa mới hét là một đứa bé gái mặt tàn nhang với hai bím tóc, tầm khoảng 8 hoặc 9 tuổi. Con bé đứng như trời trồng cách vài bước một đống thân cây mục rữa. Geralt nhanh nhẹn nhảy tới, nhấc nó lên và kẹp bên dưới cánh tay, làm gián đoạn tiếng hét chói tai, và qua khóe mắt anh phát hiện thấy chuyển động giữa những thân cây. Anh khẩn trương rút lui, đụng phải Zoltan và những người lùn. Milva, cũng thấy được chuyển động giữa mấy cái cây, kéo căng dây cung. “Đừng bắn,” anh rít lên. “Đem con bé đi chỗ khác, nhanh lên. Và lùi lại, nhưng từ từ thôi. Đừng làm bất kỳ chuyển động đột ngột nào.” Thoạt đầu có vẻ như là một khúc cây đang di chuyển, như thể bỗng dưng sống dậy, trườn ra khỏi ánh mặt trời để ẩn nấp trong bóng râm dưới tán lá. Chỉ sau khi nhìn kỹ một lúc người ta mới có thể nhận ra những chi tiết khác, chủ yếu là bốn cặp chân khẳng khiu thò ra từ một cái vỏ bẩn thỉu, lốm đốm và chia ra thành nhiều mảnh như áo giáp. “Bình tĩnh nào,” Geralt khẽ lặp lại. “Đừng khiêu khích nó. Đừng bị đánh lừa bởi vẻ lù đù đấy. Nó không hung dữ đâu, nhưng có thể di chuyển cực nhanh. Nếu cảm thấy bị đe dọa, nó sẽ tấn công, và độc của nó không có thuốc giải đâu.” Sinh vật bò chậm rãi lên đống gỗ. Nó nhìn Dandelion và những người lùn, từ từ xoay người lại, mắt lồi lên, mở to. Nó không di chuyển mấy. Nó giũa mấy cái cẳng chân khẳng khiu, giơ từng cái lên một và cẩn thận xem xét, để lộ ra hàm răng nhọn ấn tượng. “La hét to đến nỗi,” Zoltan nói không cảm xúc, đứng bên cạnh witcher, “tôi cứ tưởng phải là cái gì đó khủng khiếp lắm. Như thể kỵ binh Verden chẳng hạn, hay là lũ angi’vare. Và ở đây chúng ta lại có một con tôm quá khổ. Phải công nhận là, tự nhiên có những hình thù rất thú vị.” “Không, tôi không công nhận.” Geralt nói. “Cái thứ đang ngồi ở đây là một con okoglow. Một tạo vật của Hỗn Mang. Tàn dư còn sót lại từ trước cả Sự Hội Tụ của những Tinh Cầu, nếu ông hiểu ý tôi.” “Chắc rồi, tôi hiểu chứ.” Người lùn nhìn vào mắt anh. “Mặc dù không phải là một witcher, tôi cũng biết về Hỗn Mang và những tạo vật của nó. Tôi chỉ đang rất tò mò là anh định làm gì với cái tàn dư này đây. Chính xác hơn thì tôi đang thắc mắc là anh định làm theo kiểu gì. Anh muốn dùng kiếm của mình hay thanh Sihil của tôi?” “Kiếm đẹp đấy.” Geralt liếc nhìn thanh gươm mà Zoltan đã rút ra từ cái vỏ bằng gỗ sơn mài và bọc bằng da hươu. “Nhưng tôi sẽ không cần nó.” “Tò mò thật,” Zoltan lặp lại. “Vậy chúng ta cứ đứng đây nhìn thế này à? Liệu tàn dư kia có thấy bị đe dọa không? Hay có lẽ anh muốn quay lại và nhờ người Nilfgaard trợ giúp? Anh gợi ý sao đây, thợ săn quái vật?” “Lấy cho tôi cái muỗng và nắp vung ở trên xe.” “Cái gì?” “Đừng tranh cãi với một chuyên gia, Zoltan.” Dandelion nói. Percival Schuttenbach quay lại chiếc xe và trong tích tắc cung cấp những vật dụng cần thiết. Witcher nháy mắt với đoàn lữ hành, rồi bắt đầu gõ chiếc thìa lên cái nắp vung bằng toàn bộ sức lực. “Đủ rồi! Đủ rồi!” Zoltan Chivay la lên sau một lúc, hai tay bịt tai. “Đồ khốn, anh sẽ làm hỏng cái muỗng mất! Con tôm đã chạy mất rồi! Nó bỏ chạy rồi, mẹ kiếp!” “Và nhìn nó chạy kìa!” Percival reo lên. “Bụi mù mịt! Trời vẫn còn ẩm, thế mà vẫn có bụi đằng sau nó, râu ria quỷ thần ơi!” “Con okoglow,” Geralt bình thản giải thích, đưa lại cho người lùn bộ dụng cụ ăn uống, “có thính giác cực kỳ nhạy cảm. Nó không có tai, nhưng vẫn có thể nghe được, bằng toàn bộ cơ thể. Cụ thể hơn là nó không chịu được âm thanh của kim loại. Nó sẽ thấy đau....” “Ngay cả từ dưới háng,” Zoltan ngắt lời. “Tôi biết bởi vì chính tôi cũng cảm thấy thế, khi anh bắt đầu gõ lên cái vung. Nếu con quái vật có thính giác nhạy hơn tôi, tôi cảm thấy thương cho nó. Ít ra thì nó cũng sẽ không quay lại đây chứ hả? Liệu nó có mang theo bạn bè không?” “Tôi không nghĩ là giống loài của nó còn lại nhiều. Còn về con này, nó sẽ không quay trở lại khu vực này sớm đâu. Không cần phải lo.” “Bỏ qua con quái vật,” người lùn nhăn mặt. “Thì màn độc tấu với cái chảo rán của anh có lẽ đã được nghe từ tận Quần đảo Skellige, và có nhiều khả năng là những người yêu mến âm nhạc đã đang trên đường tới đây rồi. Tốt nhất là chúng ta không còn ở đây nữa khi họ tới. Thu dọn đi các chàng trai! Này, mấy bà kia, mặc quần áo vào và gom lũ trẻ lại đi! Nhanh lên, đi thôi!” *** Khi họ nghỉ chân lúc trời tối, Geralt quyết định làm sáng tỏ vài điều đang khiến anh khó chịu. Zoltan Chivay trông không có vẻ là đang định làm vài ván bài, vậy nên witcher không gặp khó khăn gì trong việc kéo ông ra một nơi vắng vẻ để nói chuyện riêng. Anh bắt đầu mà không vòng vo. “Nói tôi nghe đi, sao ông biết tôi là một witcher?” Đôi mắt người lùn sáng lên và ông mỉm cười ranh mãnh. “Tôi có thể khoe đó là do trực giác của tôi. Tôi có thể nói tôi đã để ý thấy mắt anh thay đổi màu sắc khi hoàng hôn xuống và khi mặt trời lên. Tôi cũng có thể nói, rằng tôi đi đây đi đó nhiều và đã nghe quá đủ về Geralt xứ Rivia. Nhưng sự thật đơn giản hơn thế nhiều. Đừng nhìn tôi bằng ánh mắt ác hiểm đó, Sói. Anh rất kín đáo, nhưng tay nhạc sĩ bạn anh thì hát và nói liên hồi, mồm cậu ta không khép lại được. Đó là vì sao tôi biết nghề nghiệp của anh.” Geralt không hỏi câu tiếp theo. Và đã đúng khi làm vậy. “Chà, thôi được rồi.” Zoltan lên tiếng. “Dandelion đã xì ra hết. Chắc cậu ta thấy chúng tôi tôn trọng sự thành thực, và chúng tôi thực sự cảm thông với anh. Cậu ta không cần phải thử chúng tôi, bởi vì chúng tôi không giấu bản chất thật của mình làm gì. Nói ngắn gọn: tôi biết tại sao anh lại xuống phía Nam khẩn trương như vậy. Tôi biết vấn đề cấp bách và quan trọng nào đã dẫn anh đến Nilfgaard. Tôi biết anh đang tìm ai ở đó. Và đấy không chỉ là từ mồm của nhà thơ. Tôi đã sống ở Cintra từ trước chiến tranh và được nghe câu truyện về Đứa Trẻ Bất Ngờ và witcher tóc trắng, trói buộc với nhau bởi định mệnh.” Geralt giữ im lặng. “Phần còn lại,” người lùn nói, “chỉ là nhờ quan sát mà thôi. Anh là một witcher, một thợ săn quái vật, vậy mà anh đã để con thú kia chạy mất. Con quái vật chỉ mới làm đứa trẻ hoảng sợ, nó vẫn chưa làm gì sai cả, vậy nên anh bỏ thanh kiếm, và cầm lên cái thìa. Bởi vì anh không còn là một witcher nữa, mà là một hiệp sĩ cao quý, người đang xông đến giải cứu trinh nữ bị bắt cóc.” Witcher vẫn không nói gì cả. “Anh nhìn xoáy tôi bằng ánh mắt. Anh đang lo là tôi sẽ phản bội anh. Anh đang phân vân không biết tôi sẽ dùng bí mật này để chống lại anh như thế nào. Đừng tự dày vò bản thân làm gì. Chúng ta sẽ cùng nhau tới Ina, và giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta đều có chung một mục đích: đấu tranh sinh tồn. Để có thể tiếp tục sứ mệnh cao cả, hay đơn giản là sống sót, nhưng không phải thấy hổ thẹn vào giờ khắc khi cái chết cận kề. Anh nghĩ là mọi thứ đã thay đổi. Thế giới đã thay đổi. Nhưng thế giới vẫn vậy. Và anh vẫn là anh. Đừng tự dày vò bản thân.” “Hãy quên việc tách rời nhóm đi.” Zoltan tiếp tục màn độc thoại, không thấy xấu hổ bởi sự im lặng của witcher. “Hãy từ bỏ chuyến du hành dài và đơn độc tới phía Nam, qua Brugge và Sodden đến sông Yaruga. Anh phải tìm đường khác tới Nilfgaard. Nếu muốn, tôi sẽ cho anh lời khuyên....” “Không cần,” Geralt xoa đầu gối, mà sau vài ngày vẫn chưa hết đau. “Cứ giữ những lời khuyên đó của ông đi, Zoltan.” Anh thấy Dandelion đang chơi bài với đám người lùn. Không một lời, anh túm lấy tay áo nhà thơ và lôi cậu vào rừng. Dandelion ngay lập tức nhận ra có chuyện không hay, chỉ cần liếc nhìn gương mặt witcher một cái là đủ hiểu. “Này con vẹt kia,” Geralt thì thầm. “Lúc nào cũng buôn dưa lê. Mồm to. Có lẽ tôi nên cắt lưỡi cậu, đồ đầu đất! Học cách ngậm miệng vào đi.” Nhà thi sĩ im lặng, nhưng gương mặt cậu vẫn giữ vẻ bình tĩnh. “Khi biết cậu sẽ đi cùng tôi,” witcher tiếp tục. “Một vài người khôn ngoan đã thấy kinh ngạc. Họ không tin được là tôi lại để cậu đi cùng. Họ đã khuyên tôi nên đưa cậu đến nơi nào đó vắng vẻ, bóp cổ cậu, lột hết đồ và giấu xác cậu vào một cái thân cây rỗng. Tôi thật sự thấy hối hận là đã không nghe theo.” “Chẳng lẽ việc anh là ai và đang đi đâu là một bí mật lớn đến vậy sao?” Dandelion bất chợt mất bình tĩnh. “Chúng ta có cần nghi ngờ tất cả mọi người và giả vờ suốt cả quãng đường không? Những người lùn này....họ là đoàn lữ hành của ta....” “Tôi không có một đoàn lữ hành.” Anh gầm gừ. “Tôi không có. Tôi không muốn có. Tôi không cần có. Cậu hiểu không?” “Chắc rồi, anh ta hiểu chứ.” Milva lên tiếng từ đằng sau anh. “Và tôi cũng hiểu. Anh chẳng cần ai hết, witcher. Anh thường xuyên thể hiện điều đó còn gì.” “Tôi không đang châm ngòi một cuộc chiến cá nhân,” anh quay ngoắt lại. “Tôi không cần những người này bởi vì tôi không đến Nilfgaard để cứu thế giới, để lật đổ một đế chế tàn ác. Tôi tới đó để tìm Ciri. Đó là vì sao tôi phải đi một mình. Xin thứ lỗi nếu cô không thích nghe điều này, nhưng tôi chẳng quan tâm mẹ gì đến những cái khác. Và giờ thì đi đi. Tôi muốn ở một mình.” Sau một hồi, anh quay lại, và thấy chỉ có mỗi Dandelion là rời đi. “Tôi lại có giấc mơ đó,” anh nói khô khan. “Milva, thời gian của tôi đang cạn dần. Thời gian của tôi đang cạn dần! Con bé cần tôi. Nó cần tôi!” “Kể tôi nghe đi,” cô nói khẽ. “Cứ trút hết ra đi. Kể cả nó có khủng khiếp thế nào đi chăng nữa, kể tôi nghe đi.” “Nó không khủng khiếp gì cả. Trong mơ....con bé đang nhảy múa. Nó đang nhảy múa trong một cái lán mờ khói. Và con bé, chết tiệt, đang rất hạnh phúc. Có tiếng nhạc, ai đó la lên....Cả căn chòi rúng động bởi âm nhạc và tiếng cười đùa....Và con bé nhảy, nhảy, và giậm chân....Và bên trên mái của cái chòi chết tiệt đó, trong làn không khí lạnh lẽo của buổi đêm....là cái chết đang nhảy. Milva....Maria....Con bé cần tôi.” Milva quay mặt đi. “Con bé không phải người duy nhất đâu,” cô thì thầm. Để anh không nghe được. *** Lần dừng chân tiếp theo, witcher tỏ ra hứng thú với thanh kiếm của Zoltan, Sihil, mà anh đã có dịp nhìn lướt qua khi đối đầu với con okoglow. Không ngần ngại, người lùn trút bỏ lớp da hươu bọc quanh và rút nó ra khỏi vỏ. Thanh kiếm dài khoảng một mét, và không nặng hơn một cân. Lưỡi kiếm bao phủ bởi những ký tự cổ khiến nó hơi có màu xanh và sắc như dao cạo. Với một chút luyện tập, người ta có thể dùng nó làm dao cạo cũng được. Tay cầm dài 30 phân, được bọc một lớp da thằn lằn, nó có một cái nắp đồng hình trụ coi như chuôi kiếm, và thanh chắn, dù khá nhỏ, nhưng hoa văn rất chi tiết. “Một vật rất đẹp,” Geralt vẫy Sihil, nó huýt sáo khi anh chuyền từ tay trái sang tay phải bằng hai ngón. “Nói thật, nó là một miếng sắt rất đẹp.” “Huh!” Percival Schuttenbach khịt mũi. “Một miếng sắt! Nhìn kỹ lại đi, bởi vì trong giây lát có khi anh lại nói nó là một củ cải không chừng.” “Tôi từng có một thanh kiếm tốt hơn.” “Và tôi không phủ nhận điều đó,” Zoltan nhún vai. “Bởi vì chắc chắn là nó cũng từ lò rèn của chúng tôi mà ra. Witcher các anh rất biết cách dùng kiếm, nhưng không làm ra chúng. Chúng chỉ được làm ở Mahakam, bên dưới Núi Carbon.” “Người lùn gia công thép,” Percival thêm vào, “và rèn những lớp chính. Nhưng gnome chúng tôi xử lý công đoạn trang trí và mài bén. Trong các công xưởng. Sử dụng kỹ thuật của gnome, cũng như khi chúng tôi làm ra gwyhyr, những thanh kiếm tốt nhất trên thế giới.” “Thanh kiếm tôi đang dùng,” Geralt lôi ra thanh gươm của mình, “tới từ Brokilon, từ hầm mộ Craag An. Người dryad đã trao nó cho tôi. Một món vũ khí thượng hạng, mà chẳng phải của người lùn hay gnome. Đây là một thanh kiếm của elves, 100 hay 200 tuổi rồi.” “Anh ta chẳng biết cái mẹ gì cả!” Người gnome kêu lên, cầm lấy thanh kiếm và lướt ngón tay dọc nó. “Công đoạn xử lý cuối cùng là do người elves, đúng vậy. Tay cầm, tay chắn và chuôi. Nó cũng có hình khắc và trang trí của elves. Nhưng lưỡi kiếm được rèn và mài ở Mahakam. Và đúng là nó đã được làm từ vài thế kỷ trước, bởi vì anh có thể thấy dễ dàng là chất lượng thép kém hơn nhiều và tay nghề cũng thô sơ hơn. Đây, đặt thanh Sihil của Zoltan cạnh nó xem, anh thấy sự khác biệt không?” “Tôi thấy. Nhưng cái của tôi vẫn chẳng có vẻ gì là kém hơn.” Người gnome khịt mũi và khoát tay. Zoltan mỉm cười tự hào. “Lưỡi kiếm,” ông ta giải thích với vẻ tự phụ, “và cảm giác của thanh kiếm không phải là thứ khiến nó khác so với cái của tôi. Vấn đề là, thanh kiếm của anh chỉ đơn giản làm từ sắt và thép, còn lưỡi kiếm Sihil của tôi được rèn từ hợp kim của chì tinh luyện và hàn the....” “Công nghệ hiện đại!” Percival không thể kìm được, cuộc tranh luận đã dẫn đến chủ đề mà ông ta rành rõi. “Thiết kế và thành phần của lưỡi kiếm bao gồm nhiều lớp nhân mềm và thép cứng, chứ không hoàn toàn là thép mềm....” “Chậm thôi, chậm thôi,” người lùn lên tiếng. “Anh ta có phải dân luyện kim đâu, Schuttenbach, đừng giải thích chi tiết quá làm gì. Tôi sẽ nói thật đơn giản. Thép thường, witcher à, cứng và từ tính, rất khó có thể mài bén được. Tại sao? Bởi vì nó cứng! Khi chúng tôi chưa có công nghệ, như hồi trước còn với các anh là bây giờ, và muốn một thanh kiếm sắc thì cần phủ bên ngoài một lớp thép mềm, dễ gia công hơn. Thanh kiếm Brokilon của anh được làm bằng phương pháp này. Kiếm hiện đại thì được làm ngược lại thế - nhân mềm và vỏ cứng. Việc gia công tốn thời gian hơn và như tôi nói, đòi hỏi kỹ thuật hiện đại. Nhưng kết quả là cho ra được một thanh kiếm có thể cắt đôi một mảnh vải giữa không khí.” “Thanh Sihil của ông có làm vậy được không?” “Không.” Người lùn mỉm cười. “Anh có thể đếm những thanh kiếm làm được như vậy trên đầu ngón tay, và chỉ còn lại rất ít ở Mahakam. Nhưng tôi đảm bảo là cái con tôm bẩn thỉu mà chúng ta gặp ngày hôm qua sẽ không sống nổi với thanh Sihil của tôi đâu. Lớp vỏ dầy cộp của nó cũng chẳng kháng cự được mấy. Anh có thể cắt vụn nó ra không chút khó khăn.” Cuộc tranh luận về kiếm và luyện kim diễn ra một lúc lâu nữa. Geralt lắng nghe chăm chú, chia sẻ kinh nghiệm bản thân, và nhân cơ hội để tăng thêm vốn hiểu biết của mình, hỏi cái nọ cái kia, kiểm tra và dùng thử thanh Sihil của Zoltan. Anh không hề biết rằng vào ngày mai mình sẽ phải kiểm nghiệm những giả thiết đó bằng thực hành. Dấu hiệu đầu tiên cho thấy có người sống trong khu vực, là một chồng vỏ cây mà Percival Schuttenbach đã phát hiện thấy trên đường khi đang đi đầu đoàn lữ hành. Zoltan ra lệnh dừng lại và cử người gnome đi trinh sát xa hơn. Percival biến mất, và sau nửa giờ quay lại với tốc độ tối đa, phấn khích và hết hơi, vẫy tay từ đằng xa. Ông ta đến chỗ họ, nhưng thay vì báo cáo ngay lập tức, lại túm lấy cái mũi dài của mình và thổi một hơi hết sức bình sinh, tạo ra một âm thanh nghe giống tù và của người chăn cừu. “Đừng làm thú vật hoảng sợ!” Zoltan Chivay nói. “Và báo cáo đi. Ở phía trước có cái gì?” “Một ngôi làng nhỏ,” gnome thở dốc, chùi tay lên chiếc áo khoác nhiều túi. “Ở giữa khoảng rừng thưa. Ba ngôi nhà tranh, một nông trại, một cái lán, vài túp lều....Một con chó chạy ở trước sân, và ống khói đang cháy. Thức ăn đang được nấu, yến mạch, sữa vào nhiều hơn thế.” “Cái gì, ông đã ở trong bếp sao?” Dandelion cười. “Ông đã nhìn vào trong nồi à mà biết là có yến mạch?” Người gnome nhìn cậu với vẻ bề trên, và Zoltan khịt mũi giận dữ. “Đừng xúc phạm ông ta, nhà thơ. Ông ta có thể ngửi mùi thức ăn từ cách xa một dặm. Nếu ông ta nói đó là yến mạch thì nó là yến mạch. Chết tiệt, tôi còn chẳng thích ăn yến mạch.” “Sao lại không? Tôi thích yến mạch. Tôi sẽ rất sẵn lòng đánh chén.” “Zoltan nói phải đấy.” Milva cất lời. “Và anh trật tự đi, Dandelion, bởi vì nó chẳng có gì thi vị cả. Nếu có sữa trong yến mạch, tức là có một con bò. Và bất kỳ tay nông dân nào cũng có thể trông thấy đám khói bốc lên và đem con bò trốn vào trong rừng. Vậy tại sao hắn lại ở đây? Chúng ta nên đi đường vòng tránh qua chỗ đó. Tôi linh cảm có gì không ổn.” “Bình tĩnh, bình tĩnh.” người lùn lầm bầm. “Chúng ta sẽ chuẩn bị sẵn sàng để chạy trốn nếu cần. Có lẽ là chiến tranh đã kết thúc? Có lẽ quân đội Temeria cuối cùng đã tiến công? Làm sao chúng ta biết được trong khi ở đây? Có thể một trận đánh lớn đã nổ ra, Nilfgaard bị đẩy lui, và tiền tuyến đang ở đằng sau ta, và những người nông dân cùng bò của họ đã quay về nhà? Chúng ta cần phải biết. Figgis, Munro, cả hai ở lại đây và mở to mắt ra. Chúng ta sẽ làm một chuyến thám thính nhỏ. Nếu gặp nguy hiểm, tôi sẽ báo hiệu bằng tiếng chim ưng.” “Tiếng chim ưng?” Munro Bruys lo lắng nghịch chòm râu. “Nhưng ông có biết bắt chước tiếng chim đâu, Zoltan?” “Chính xác. Vậy nếu cậu nghe thấy âm thanh kỳ lạ nào đó không thể nhận ra được, thì đó sẽ là tôi. Percival, dẫn đường đi. Geralt, anh có đi cùng chúng tôi không?” “Tất cả chúng ta cùng đi.” Dandelion xuống ngựa. “Nếu đó là một cái bẫy, chúng ta sẽ an toàn hơn khi đi đông.” “Tôi sẽ để Nguyên soái lại đây.” Zoltan nhấc con vẹt khỏi vai và đưa cho Figgis Merluzzo. “Nó có thể bỗng dưng quyết định xổ ra mấy câu tục tĩu, và trò lén lút của chúng ta sẽ đi tong. Nhanh nào.” Percival nhanh chóng dẫn họ tới bìa rừng, qua những bụi hoa cà rậm rạp. Phía trước đám cây, địa hình trở nên thoải, kết thúc dưới một đống gỗ chặt nham nhở. Đằng sau đó là một khoảng rừng thưa rất rộng. Milva cẩn thận quan sát. Báo cáo của người gnome rất chính xác. Ở giữa khoảng rừng là ba ngôi nhà tranh, một nông trại và vài túp lều phủ rêu xanh. Một bãi phân lớn ở giữa cái sân. Những ngôi nhà và một trảng cỏ bé, mà nhìn có vẻ lộn xộn, được bao quanh bởi một hàng rào thấp, đổ nát. Phía sau hàng rào, một con chó xám đang sủa. Phía trên một ngôi nhà là một cột khói, lười biếng bò qua một cái lỗ trên mái. “Nói thật,” Zoltan huýt sáo, hít hà, “đúng là mùi rất thơm. Đặc biệt trong khi mũi tôi đã quen với mùi rừng cây bị phóng hỏa rồi. Tôi không thấy lính gác hay con ngựa nào, và tôi nghĩ đây chỉ là một nhóm lưu manh đang trú ẩn. Hmm....tôi thấy chúng ta chẳng việc gì phải lo cả.” “Tôi sẽ đi.” Milva tuyên bố. “Không.” Người lùn phản đối. “Cô nhìn giống Sóc quá. Nếu thấy cô, họ có thể hoảng sợ. Và con người thường hành động bất ngờ khi hoảng loạn. Yazon và Caleb sẽ đi. Còn cô, hãy chuẩn bị sẵn cung tên để bắn đi, yểm trợ họ nếu cần. Percival sẽ sẵn sàng để cảnh báo những người khác. Hãy cảnh giác, phòng khi chúng ta cần rút lui.” Yazon Varda và Caleb Stratton thận trọng xuất hiện từ trong bụi cây và di chuyển về phía những ngôi nhà. Họ đi thật chậm, nhìn ngó xung quanh. Con chó ngay lập tức trông thấy họ. Nó sủa ầm ĩ, chạy quanh sân, và không phản ứng lại với những tiếng huýt sáo và tặc lưỡi của hai người lùn. Cánh cửa nhà bật mở. Milva lập tức giương cung lên và khẽ kéo dây. Và lại nhanh chóng nhả ra. Trên ngưỡng cửa là một đứa bé gái nhỏ, gầy với bím tóc dài. Nó hét câu gì đó với hai người lùn, và vẫy tay. Yazon Varda xòe tay ra, và hét lại một câu khác. Đứa bé bắt đầu la lên. Geralt và những người khác nghe được, nhưng không nhận ra câu từ nào. Những từ đó hẳn phải tác động ghê gớm lên Yazon và Caleb, bởi vì cả hai người ngay lập tức quay lại và bỏ chạy về phía bụi hoa cà. Milva lại giương cung lên, di chuyển đầu mũi tên, tìm mục tiêu. “Cái quỷ gì thế?” Zoltan hỏi. “Có chuyện gì vậy? Sao họ lại chạy như ma đuổi thế? Cô trông thấy gì, Milva?” “Ngậm miệng lại đi.” Nữ cung thủ rít lên, vẫn di chuyển đầu mũi tên từ nhà này sang nhà kia, từ lều này sang lều kia. Nhưng vẫn chẳng thấy gì. Đứa bé gái tóc bím biến vào trong nhà, sập cửa. Hai người lùn chạy như thể tất cả quỷ dữ của Hỗn Mang đuổi theo sau họ. Yazon hét lên câu gì đó, có thể là chửi thề. Dandelion đột nhiên biến sắc. “Anh ta đang la lên....Ôi, mẹ ơi!” “Có chuyện gì th....” Zoltan ngừng lại vì Yazon và Caleb đã tới nơi, mặt cả hai đỏ loét. “Sao thế? Nói đi xem nào!” “Có dịch bệnh....” Caleb hớp hơi. “Đậu mùa....” “Cậu có chạm vào cái gì không?” Zoltan Chivay đột ngột lùi lại, gần như xô ngã Dandelion. “Cậu có chạm vào cái gì trong sân không?” “Không....con chó không để chúng tôi lại gần....” “Tạ ơn trời vì con cún mắc toi đó.” Zoltan ngước mắt lên. “Cầu cho thần linh ban cho nó cuộc sống dài lâu và một đống xương to như Núi Carbon. Đứa bé ở trong nhà, nó có mụn không?” “Không. Nó khỏe mạnh. Những người bệnh nằm trong ngôi nhà ở cuối, toàn bộ gia đình con bé. Nó nói nhiều người đã chết. Này, này, Zoltan, gió đang thổi về phía chúng ta đấy!” “Tán gẫu đủ rồi,” Milva lên tiếng, hạ cây cung xuống. “Nếu anh không chạm vào cái gì bị lây nhiễm thì không cần phải lo. Đấy là nếu quả thực là đang có dịch đậu mùa. Đứa con gái có thể chỉ muốn dọa anh đi thôi.” “Không,” Yazon nói chắc nịch, vẫn đang run rẩy. “Đằng sau ngôi nhà có một cái hố....và trong đấy đầy xác người. Đứa bé không có sức để chôn những người chết, nên nó ném họ xuống hố....” “Chà!” Zoltan khịt mũi. “Yến mạch của cậu đấy, Dandelion. Tôi không biết cậu nghĩ sao, chứ tôi thì có lẽ sẽ bỏ qua bữa này. Ra khỏi đây thôi, trong khi vẫn còn sống.” Những tiếng sủa điên dại lại vang lên từ ngôi làng. “Nấp đi!” Witcher rít lên, quỳ xuống. Từ phía đối diện khoảng rừng là một nhóm kỵ sĩ đi xung quanh hàng rào đổ nát, huýt sáo và bao vây ngôi làng, rồi xông vào trong sân. Những kẻ cưỡi ngựa được vũ trang nhưng không mặc quân phục nào cả. Trái lại, chúng mặc quần áo thông thường đủ các màu, và dụng cụ mang trên người trông chẳng hợp chút nào – không phải lấy từ doanh trại, mà nhặt được trên chiến trường thì hơn. “Mười ba.” Percival Schuttenbach nhanh chóng đếm. “Chúng là ai thế?” “Chúng không phải Nilfgaard hay quân đội thông thường nào,” Zoltan nói. “Chúng cũng chẳng phải Scoia’tael. Đối với tôi, trông chúng giống bọn đào ngũ. Một băng nhóm.” “Hay cướp đường.” Lũ kỵ sĩ hét hò ầm ĩ, dạo chơi quanh sân. Con chó nhận một cú đập bằng que và chạy mất. Đứa bé gái tóc bím nhảy ra khỏi cửa, la hét. Nhưng lần này lời cảnh báo không có tác dụng hay không được coi trọng. Một tên phóng ngựa qua, túm lấy tóc con bé và kéo ra khỏi ngưỡng cửa, lê nó qua vũng bùn. Những kẻ khác nhảy xuống ngựa, chung tay lôi đứa bé gái xuống cuối sân, xé quần áo và ném nó vào đống rơm mục rữa. Con bé chống cự kịch liệt, nhưng chẳng có cơ hội nào cả. Chỉ có một tên cướp không tham gia vào cuộc vui. Hắn đứng trông coi mấy con ngựa đang cột vào hàng rào. Đứa bé gái bắt đầu hét lên tuyệt vọng. Rồi tiếng hét trở nên lịm dần, đứt quãng, và biến mất hẳn. “Chiến binh!” Milva xổ ra. “Anh hùng...lũ khốn nạn!” “Rõ ràng là chúng không sợ đậu mùa.” Yazon Varda lắc đầu. “Sợ hãi,” Dandelion thì thầm, “là dành cho con người. Trong chúng không còn lại chút nhân tính nào nữa rồi.” “Ngoại trừ ruột chúng,” Milva gầm gừ, cẩn thận tra mũi tên vào cung. “Mà tôi sắp sửa đục thủng bằng mũi tên này đây, bọn vô lại đó.” “Có 13 tên lận,” Zoltan Chivay nói tỉnh táo. “Và chúng có ngựa. Cô có thể giết được một hai tên, nhưng số còn lại sẽ tấn công chúng ta. Vả lại, có thể đây chỉ là một nhóm tách ra mà thôi. Ai mà biết được còn có bao nhiêu tên khác nữa.” “Vậy thì sao, tôi phải đứng yên đây mà nhìn, và chẳng làm gì hết?” “Không.” Geralt đã đeo thanh kiếm ra sau lưng và buộc tóc lại. “Tôi đã phát chán phải đứng nhìn rồi. Tôi đã phát chán phải ngồi yên rồi. Chúng phải bị trừ khử. Cô thấy gã đang đứng trông ngựa không? Khi tôi ra gần đó, hãy bắn hắn ngã xuống. Nếu có thể, hãy hạ thêm một tên nữa. Nhưng chỉ khi tôi đã tới đó rồi.” “Thế thì sẽ còn 11.” Nữ cung thủ nhìn quanh. “Tôi biết đếm mà.” “Còn dịch đậu mùa thì sao?” Zoltan Chivay lầm bầm. “Nếu ra đó, anh sẽ bị nhiễm bệnh....quỷ thần ơi, witcher! Anh sẽ khiến tất cả chúng ta gặp nguy hiểm....Chết tiệt, đây không phải đứa bé mà anh đang tìm kiếm!” “Im đi, Zoltan. Quay lại chiếc xe đi, nấp vào trong rừng.” “Tôi sẽ đi với anh.” Giọng Milva khàn khàn. “Không. Cứ yểm trợ cho tôi từ xa, cô sẽ giúp được tôi hiệu quả hơn.” “Còn tôi?” Dandelion hỏi. “Tôi phải làm gì?” “Việc mà cậu hay làm. Chẳng gì hết.” “Anh điên rồi...” Zoltan làu bàu. “Chỉ có mỗi mình anh đấu lại chúng....Anh bị sao thế hả? Muốn chơi trò anh hùng à, vị cứu tinh của thiếu nữ?” “Im đi.” “Vậy thì cứ để quỷ dữ bắt anh đi! Đợi đã....bỏ thanh kiếm đó lại đây. Chúng rất đông, tốt nhất là anh không cần phải chém đến hai lần. Hãy mang thanh Sihil của tôi. Với nó, chỉ một là đủ.” Witcher nhận món vũ khí của người lùn không do dự, và không một lời. Anh lại chỉ cho Milva tên cướp đang canh ngựa lần nữa. Rồi nhảy qua khúc gỗ và bước từng bước nhanh nhẹn về phía căn nhà. Mặt trời đang tỏa sáng. Châu chấu nhảy tung tăng dưới chân anh. Tên kỵ sĩ trông ngựa nhìn thấy anh, và rút ra một cây giáo dắt trên yên. Hắn có mái tóc dài, dày, rủ xuống chiếc áo thép rách rưới, vá víu bằng vài sợi kim loại sét rỉ. Hắn mang một đôi giày mới với khóa sáng lóa, chúng rõ ràng là đã được cướp gần đây. Tên lính canh la lên, rồi từ đằng sau hàng rào một tên khác chạy ra. Tên này đeo một chiếc thắt lưng có treo một thanh kiếm trên đó, và hắn chỉ vừa mới kéo quần lên xong. Geralt đã ở khá gần rồi. Từ đống rơm anh nghe thấy tiếng cười của những kẻ đang tự giải trí bằng đứa bé gái. Anh hít từng hơi thật sâu, mỗi hơi thở đều nhân lên ham muốn giết chóc. Anh có thể làm mình bình tĩnh lại, nhưng không muốn. Anh muốn tận hưởng điều này. “Này, ngươi là ai? Dừng lại!” Gã tóc dài la lên, giơ cao ngọn giáo trong tay. “Ngươi muốn gì?” “Ta chán đứng nhìn rồi.” “Cái gì?” “Cái tên Ciri có ý nghĩa gì với ngươi không?” “Ta sẽ....” Tên kỵ sĩ không nói thêm được gì. Một mũi tên với lông vũ xám cắm vào giữa ngực và hắn rơi khỏi yên ngựa. Trước khi hắn ngã xuống đất, Geralt đã nghe thấy tiếng huýt sáo của mũi tên thứ hai. Đầu mũi tên bắn trúng bụng tên lính kia, thấp, ngay giữa kẽ ngón tay đang kéo khóa quần của hắn. Hắn rú lên như thú vật, gập đôi người lại và ngã ra sau hàng rào, làm đổ những cây cọc. Trước khi những tên còn lại kịp chạy và tìm vũ khí, witcher đã đang ở giữa chúng rồi. Thanh kiếm của người lùn nhảy múa và hát, bài ca nhẹ như lông hồng và lưỡi thép sắc như dao cạo để lộ cơn khát máu hoang dại. Nó cắt qua từng thân người không chút khó khăn. Máu bắn lên mặt witcher, anh không có thời gian lau đi. Kể cả khi những kẻ đào ngũ có ý định chống trả, thì cảnh tượng từng cái xác đổ xuống và dòng suối máu chảy ra rất có tác dụng trong việc dọa chúng khiếp vía. Quần một tên vẫn đang quấn quanh đầu gối, hắn còn chẳng kịp kéo nó lên. Hắn bị cắt đứt động mạch cảnh và ngã ngửa ra sau, phần thừa ra giữa hai chân vung vẩy lố bịch, bản lĩnh đàn ông vẫn chưa được thỏa mãn. Một tên kỵ sĩ thứ hai, đầu cạo trọc lốc, cố bảo vệ gương mặt bằng hai bàn tay, và Sihil ngay lập tức cắt đứt cả hai tay hắn. Những kẻ còn lại chạy, tỏa ra mọi phía. Witcher đuổi theo chúng, thầm nguyền rủa cơn đau đang bắt đầu âm ỉ trên đầu gối. Anh hy vọng rằng nó sẽ không từ chối nghe theo lời mình. Hai tên chạy tới được hàng rào, và cố bảo vệ mình, vẫy kiếm trong tay. Tê liệt vì sợ, chúng di chuyển như rùa bò. Gương mặt witcher lại lần nữa dính đầy máu bắn ra từ động mạch cắt bởi lưỡi kiếm người lùn. Những kẻ khác tận dụng thời cơ để nhảy lên ngựa và chuồn đi. Một tên ngay lập tức ngã xuống, bị một mũi tên bắn trúng, giãy dụa như cá ra khỏi nước. Hai gã còn lại thúc ngựa phi nước đại. Tuy nhiên, chỉ có một kẻ chạy được, bởi vì Zoltan Chivay bỗng xuất hiện trên chiến trường. Người lùn xoay chiếc rìu và ném nó đi, trúng giữa lưng một tên đang chạy trốn. Tên cướp rống lên, ngã khỏi yên ngựa, chân cào loạn xạ. Gã cuối cùng bám chặt cổ con ngựa, nhảy qua cái hố đầy xác người và phi xuống cuối con đường. “Milva!” Cả witcher và người lùn đồng thanh hét lên. Nữ cung thủ đã đang chạy lại phía hắn. Cô đứng lại, chân trước chân sau. Cô hạ cung và kéo dây căng hơn và căng hơn. Họ nghe thấy tiếng dây bật, nhưng Milva vẫn giữ nguyên tư thế, cô thậm chí không thèm di chuyển. Họ chỉ trông thấy mũi tên khi nó cắm trúng đích. Tên kỵ sĩ đổ người lên trước, lông vũ thò ra từ vai hắn. Nhưng hắn không ngã xuống. Hắn ngồi thẳng dậy với một tiếng hét, thúc ngựa chạy nhanh hơn. “Một cây cung phi thường.” Zoltan Chivay kêu lên thán phục. “Và một cú bắn tuyệt đẹp!” “Một cú bắn như cứt.” Witcher lau máu trên mặt. “Thằng con hoang đã chạy thoát được và sẽ gọi thêm nhiều tên nữa đến.” “Cô ấy bắn trúng hắn! Và từ khoảng cách 200 bước chân lận.” “Cô ấy lẽ ra nên nhắm vào con ngựa.” “Con ngựa không có tội.” Milva khịt mũi giận dữ, bước lại chỗ họ. Cô khạc ra, nhìn tên kỵ sĩ đang biến mất vào khu rừng. “Tôi nhắm trượt tên vô lại khốn khổ bởi vì hết hơi....Pah, đồ rắn độc, chạy mất với mũi tên của ta! Cầu cho nó nguyền rủa ngươi!” Họ nghe thấy tiếng ngựa hý trên đường và ngay sau đó, âm thanh the thé của một người bị giết. “Hô, hô!” Zoltan nhìn nữ cung thủ với vẻ ngưỡng mộ. “Hắn cũng đâu chạy được xa! Mũi tên của cô không vô ích đâu! Nó tẩm độc à? Hay là có phép màu? Bởi vì sau cùng, dù cho thằng khốn đó có bị đậu mùa đi chăng nữa, thì căn bệnh chết tiệt ấy cũng đâu có phát tác nhanh vậy!” “Đó không phải do mũi tên của tôi.” Milva ném một ánh mắt thấu hiểu về phía witcher. “Và nó cũng chẳng phải đậu mùa. Nhưng tôi nghĩ mình biết đó là gì.” “Tôi cũng nghĩ là mình biết.” Người lùn mỉm cười ranh mãnh. “Tôi để ý thấy các cô luôn liếc ra phía sau, tôi biết là có người bám theo chúng ta. Trên một con ngựa màu hạt dẻ. Tôi không biết anh ta là ai, nhưng vì các cô không thấy phiền....chà, dù sao cũng không phải việc của tôi.” “Đặc biệt là trong khi chúng ta lại được lợi từ một vệ binh bên sườn như vậy.” Milva nói, nhìn sang Geralt. “Anh có chắc cái tay Cahir này là kẻ thù của mình không đó?” Witcher không trả lời. Anh trả lại Zoltan thanh kiếm. “Cám ơn. Nó không tệ đâu.” “Đặc biệt là khi ở trong bàn tay tài giỏi như vậy,” người lùn xác nhận, với một nụ cười trên mặt. “Tôi đã nghe nhiều câu chuyện về witcher, nhưng hạ gục 8 người chỉ trong chưa đầy hai phút thì...” “Chẳng có gì đáng tự hào cả. Chúng không biết cách tự vệ.” Đứa bé gái tóc bím bò dậy, rồi đứng lên, và với bàn tay run lẩy bẩy cố gắng một cách vô ích để sửa lại đống quần áo rách rưới trên người. Witcher thấy ngạc nhiên vì xét tổng thể, con bé không hề giống Ciri chút nào hết, trong khi chỉ phút trước anh còn thề là hai đứa trông như chị em sinh đôi. Con bé lau mặt, và lảo đảo bước về phía căn nhà, không thèm tránh đám phân. “Này, đợi đã,” Milva gọi. “Này, bé con...chúng tôi có thể giúp gì không? Này!” Đứa bé thậm chí không thèm nhìn cô. Nó vấp phải ngưỡng cửa, gần ngã chúi xuống đất, bám lấy khung cửa và đóng sầm lại sau lưng. “Lòng biết ơn của con người đúng là vô hạn,” người lùn nói. Milva quay ngoắt lại, gương mặt bất động. “Có gì để mà biết ơn kia chứ?” “Phải.” Witcher nói. “Có gì để mà biết ơn?” “Ngựa của bọn cướp,” Zoltan không hạ mắt. “Con bé có thể làm thịt để ăn, và không cần giết con bò. Rõ ràng là con bé miễn nhiễm với đậu mùa, và giờ thì cũng không cần sợ cái đói nữa. Con bé sẽ sống thôi. Và nhờ anh mà sự hành hạ của nó cũng không kéo dài, và ngôi nhà không bị phóng hỏa. Mất vài ngày, nhưng con bé sẽ hiểu ra khi có thời gian suy ngẫm. Đi nào, rời khỏi đây thôi, trước khi dịch bệnh bay đến chỗ ta....Này, witcher, anh đi đâu đấy? Tìm kiếm chút lòng biết ơn à?” “Không, một đôi ủng,” Geralt lạnh lùng đáp, cúi xuống tên cướp tóc dài, đôi mắt vô hồn của hắn ngước lên trời. “Có vẻ như đôi này sẽ rất vừa với tôi.” *** Trong vài ngày tiếp theo, họ ăn thịt ngựa. Đôi ủng với khóa lấp lánh khá là thoải mái. Người Nilfgaard tên Cahir vẫn bám theo họ trên con ngựa màu hạt dẻ, nhưng witcher không ngoái lại nữa. Anh cuối cùng cũng hiểu ra bí mật của Screwed và thậm chí còn chơi cùng những người lùn. Anh thua. Họ không nhắc lại những gì xảy ra ở khoảng rừng thưa. Chẳng có ích gì cả.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
www.tangthuvien.vn
 
Trở lên đầu trang