[Dịch] Witcher Saga #3: Baptism of Fire
Chương 1 : CHƯƠNG I.I
Người đăng: Mr. C
Ngày đăng: 16:38 15-02-2020
.
Và rồi nữ tiên tri nói với witcher: “Ta sẽ cho ngươi lời khuyên này: hãy đi ủng làm từ sắt, cầm lấy một cây gậy thép. Rồi đi đến tận cùng thế giới. Cùng với cây gậy hãy khám phá những vùng đất trước mắt ngươi và tưới ướt chúng bằng lệ của mình. Hãy đi qua lửa và nước, đừng dừng lại giữa đường, đừng ngoái lại phía sau. Và khi đôi ủng đã mòn, khi cây gậy đã gãy, khi cơn gió và cái nóng đã khiến mắt ngươi không còn nhỏ lệ được nữa, thì ở nơi tận cùng thế giới, ngươi sẽ tìm thấy điều mình muốn và người mà ngươi yêu thương...”
Witcher đi qua lửa và nước, anh không ngoảnh nhìn lại. Anh không đi ủng sắt hay cầm theo cây gậy thép. Anh chỉ mang thanh kiếm của mình.
Anh không nghe theo lời của nữ tiên tri. Và anh làm vậy bởi vì bà ta là một nhà tiên tri dỏm.
- Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.
_________
Bụi cây ríu rít tiếng chim.
Sườn của khe suối phủ kín cây, từng bụi mâm xôi và nhân sâm dày đặc, một nơi hoàn hảo để làm tổ và rình mồi. Đâm ra cũng chẳng ngạc nhiên lắm khi nó lúc nhúc chim. Những con hoa mai và chích chòe bướng bỉnh, chíp liên hồi, từng đợt từng đợt. Hoa mai báo hiệu cơn mưa sắp đến, Milva nghĩ, ngửa lên nhìn trời theo bản năng. Không có gợn mây nào. Nhưng những con mai vẫn hót. Khu rừng cũng cần chút mưa.
Phía trước khe suối là một nơi canh gác lý tưởng, có tiềm năng cho một cuộc đi săn thành công, đặc biệt là ở Brokilon này, một khu rừng già đầy những sinh vật hoang dã. Người dryad kiểm soát phần lớn khu rừng nhưng hiếm khi đi săn, và con người thì càng ít dám bén mảng đến đây hơn. Ở đây, người thợ săn cừ khôi nhất cũng có nguy cơ trở thành con mồi. Các dryad của Brokilon không dung thứ chút nào đối với những kẻ xâm phạm. Milva đã tận mắt chứng kiến điều này.
Dù sao thì, Brokilon không thiếu thú vật. Tuy vậy, Milva đã ngồi rình ở đây suốt hai tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa bắn một mũi tên nào. Không thể đi bộ dưới đất mà săn ở đây được – một cơn hạn hán đã kéo dài mấy tháng và để lại rất nhiều cành và lá cây khô dưới đất, mà kêu răng rắc với mỗi bước di chuyển. Với tình trạng như vậy, chỉ có đứng một chỗ chờ đợi mới có thể hy vọng săn được cái gì đó.
Một con bướm duyên dáng đậu xuống cây cung của cô. Không cử động, Milva vừa ngồi quan sát nó gấp rồi lại mở cánh, vừa nhìn cây cung của mình, một vật đẹp đẽ vừa mới sắm được mà cô vẫn chưa thấy chán dùng nó. Cô là một cung thủ, cô yêu một món vũ khí tốt, và cây cung cô đang cầm ở đây là thứ tốt nhất cô từng được dùng từ trước đến giờ.
Milva đã dùng qua rất nhiều cung trong đời. Cô đã học bắn bằng những cây cung thông thường làm từ gỗ thủy tùng, nhưng sớm từ bỏ chúng vì thích cung cán mỏng hơn, mà người dryad và elves hay dùng. Cung của elves ngắn hơn, nhẹ hơn và dễ dùng hơn, và nhờ sử dụng gỗ nhiều lớp và gân động vật, chúng cũng “nhanh hơn” rất nhiều. Một mũi tên bắn ra từ chúng bay đến mục tiêu với khoảng thời gian ngắn hơn và có quỹ đạo thẳng hơn, khiến sức cản của gió gần như bị loại bỏ hoàn toàn. Ví dụ tốt nhất về loại vũ khí này là một cây Zefhar, cái tên đặt theo hình dạng cong của cánh cung. Milva đã dùng một cây Zefhar trong vài năm và nghĩ rằng không có cây cung nào vượt qua được nó.
Nhưng cuối cùng cô đã tìm được một cây cung như vậy. Đương nhiên là tại khu chợ Hrakim ở Cidaris, nổi tiếng vì nguồn hàng dồi dào, những món đồ lạ lùng được các thủy thủ đem đến từ khắp nơi trên thế giới, bất kỳ nơi nào mà tàu chiến có thể với tới được. Mỗi khi có cơ hội, Milva đều đến thăm khu chợ và ngắm nghía hàng hóa. Chính tại nơi đây, cô đã tìm thấy món vũ khí mà cô tưởng sẽ phụng sự mình trong nhiều năm, một cây Zefhar từ Zerrikania, bọc bằng sừng hươu. Cô đã nghĩ đây chính là cây cung hoàn hảo. Nhưng chỉ được một năm, cũng chính tại gian hàng đó, cùng người thương nhân đó, cô đã tìm ra một món kỳ quan.
Cây cung đến từ xa trên phía bắc. Cánh cung dài 2 mét, được làm từ gỗ đào, tay cầm hoàn hảo và sống láng mịn với nhiều lớp gỗ dát mỏng, xương và gân cá voi. Có thể trông thấy rõ ràng rằng so với những cây cung khác nằm bên cạnh, nó không chỉ khác biệt về cách làm và tay nghề, mà còn cả giá cả - và giá của nó chính là điều đã thu hút sự chú ý của Milva. Tuy nhiên, khi cầm cây cung lên tay và thử nó, cô đã trả không chút do dự và không cần mặc cả cái giá mà người thương nhân đề nghị. 400 crown Novigrad. Không cần phải nói, cô không mang trên người số tiền lớn đến vậy. Cô đã thỏa thuận đổi cây Zefhar của mình, một bộ da chồn, một tấm mề đay và một sợi dây chuyền tuyệt đẹp của elves, một cây san hô uốn éo chấm vài viên ngọc trai sông.
Nhưng cô không thấy hối hận. Không bao giờ. Cây cung nhẹ phi thường và được chăm chút đến hoàn hảo. Mặc dù không quá dài, nhưng ẩn trong lớp vật liệu là một số lượng dây rất lớn. Được trang bị sợi tơ gai và nhung kéo dài qua 60 phân tay cầm, để tạo được sức căng chính xác 25 cân. Đúng là có những cây cung có thể cho đến 35 cân, nhưng Milva cho rằng như thế là hơi quá. Một mũi tên bắn ra từ cây cung của cô có thể bay đến 60 mét trong một nhịp tim, và ở khoảng cách 100 thước có đủ lực để xuyên thủng một con hươu và một con người nếu hắn ta không mặc giáp. Milva hiếm khi săn thứ gì đó lớn hơn hươu, hay người mặc áo giáp.
Con bướm bay đi. Những con hoa mai vẫn rúc rích trong bụi cây. Và vẫn chẳng có thứ gì xuất hiện trong tầm bắn. Milva ngồi tựa vào thân cây thông, và bắt đầu nhớ lại chuyện cũ. Để giết thời gian.
***
Lần đầu tiên cô gặp witcher là vào tháng 7, hai tuần sau sự kiện trên đảo Thanedd và cuộc chiến nổ ra ở Dol Angra. Milva quay trở lại Brokilon sau vài ngày vắng mặt, đem theo phần còn lại của một biệt đội Scoia’tael mà đã bị mắc kẹt ở Temeria trong khi cố vượt sang phần lãnh thổ của Aedirn, đang trong thời gian xảy ra đụng độ. Nhóm Sóc đã muốn gia nhập cùng những elves đang nổi dậy ở Dol Blathanna. Họ đã thất bại, và nếu không phải vì Milva, họ đã chết hết rồi. Milva đã đề nghị họ đến Brokilon trú ẩn.
Ngay sau khi quay về, cô đã được thông báo rằng Aglais đang đợi cô ở Col Serrai. Thành thực thì Milva có hơi chút ngạc nhiên.
Aglais là người trông coi việc trị thương ở Brokilon, và những hang động sâu thẳm cùng mạch nước nóng của thung lũng Col Serrai là nơi lý tưởng để chữa bệnh.
Tuy nhiên, cô vẫn tuân theo lời triệu tập, nghĩ rằng chắc có người elves nào đó đang được trị thương muốn liên lạc với đội của mình thông qua cô. Khi cô trông thấy witcher nằm đó và biết anh ta muốn gì, cô lập tức phát điên, chạy ra khỏi hang với đuôi tóc tung bay sau lưng và trút hết cơn giận lên Aglais.
“Hắn đã thấy mặt tôi! Hắn đã thấy mặt tôi! Bà thậm chí có hiểu được điều đó đe dọa đến tôi như thế nào không?”
“Không, tôi không hiểu.” Người trị thương lạnh lùng đáp. “Đây là Gwynbleidd, witcher, một người bạn của Brokilon. Đã 14 ngày trôi qua kể từ khi trăng non. Sẽ phải mất khá lâu cho đến khi anh ta có thể đứng dậy và đi lại bình thường. Anh ta muốn tin tức về thế giới, tin tức về những người thân yêu của mình. Chỉ có cô mới có thể cho anh ta điều đó.”
“Tin tức về thế giới? Tôi nghĩ bà đã mất trí rồi, dryad! Bà có biết chuyện gì đang xảy ra ngoài thế giới không, bên ngoài biên giới khu rừng yên tĩnh này của bà? Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn ở Aedirn! Ở Brugge, Temeria và Redania. Chỉ có hỗn loạn, địa ngục và đàn áp! Những kẻ đã khởi xướng bạo loạn ở Thanedd đang bị truy nã ở khắp nơi! Chỉ cần thốt ra một từ không đúng lúc thôi là sẽ được ở cùng cai ngục với gậy sắt nung ngay! Vậy mà tôi phải đi do thám, hỏi han, thu thập tin tức? Liều cái mạng của mình? Vì một gã witcher dở sống dở chết? Và bà còn nói hắn không phải người lạ, mà là bạn tôi? Bà đã mất trí rồi, Aglais!”
“Nếu cô muốn hét,” người dryad điềm tĩnh ngắt lời, “thì hãy để chúng ta đi sâu hơn vào khu rừng. Anh ta cần yên tĩnh.”
Milva miễn cưỡng liếc mắt vào trong hang, mà trong đó người đàn ông bị thương đang nằm. Đẹp trai, cô nghĩ theo bản năng, mặc dù gầy như que củi...Tóc trắng, nhưng bụng phẳng lỳ như thanh niên, loại mà quen với lao động nặng nhọc, chứ không phải bia và thịt lợn...
“Hắn đã ở trên Thanedd,” Milva nói, không tìm một câu trả lời. “Một kẻ nổi loạn.”
“Tôi không biết.” Aglais nhún vai. “Anh ta đang bị thương và cần giúp đỡ. Còn lại không phải việc của tôi.”
Milva nhăn mặt. Người trị thương nổi tiếng vì tính ít nói. Nhưng Milva đã có đủ thời gian để nghe ngóng từ các dryad ở biên giới phía tây của Brokilon, về sự kiện xảy ra hai tuần trước đó. Về một nữ pháp sư tóc hạt dẻ đã xuất hiện ở Brokilon cùng với một người đàn ông bị thương, tay và chân bị gãy, bấu víu vào cô. Người bị thương là chính witcher, biết đến với cái tên Gwynbleidd, Sói Trắng.
Thoạt tiên, các dryad không biết phải làm gì. Witcher chảy máu, la hét ầm ĩ và ngất xỉu trong khi Aglais băng bó vết thương cho anh ta. Người nữ pháp sư đã đem anh ta đến đây thì cứ đứng nhìn, vừa khóc lóc vừa chửi rủa. Khi nghe thấy điều này, Milva thấy sốc thật sự - đã từng ai nhìn thấy một nữ pháp sư khóc bao giờ? Và rồi có mệnh lệnh đến từ Duen Canell, từ Eithne với đôi mắt bạc, Quý bà của Brokilon. Nữ pháp sư đọc chỉ dụ của người đứng đầu các dryad rừng. Witcher sẽ được chăm sóc ở đây.
Họ chữa lành cho anh ta. Milva đã trông thấy tận mắt. Anh ta nằm trong hang, trong một cái hồ chứa đầy nước ma thuật của Brokilon. Tay để lên thành còn chân được cuốn trong một tấm da cừu dày và dây nho gọi là conynhael. Tóc anh ta trắng như sữa. Anh ta vẫn còn tỉnh, và dù cho những người được chữa bằng conynhael thường hay lảm nhảm những điều vô nghĩa, đôi khi ma thuật cũng nói thông qua họ...
“Không à?” Giọng nói lãnh đạm của người trị thương giật cô ra khỏi dòng suy nghĩ, “Sẽ thế nào đây? Tôi nên nói gì với anh ta?”
“Cứ để hắn đánh bạn với quỷ dữ đi.” Milva làu bàu, giật giật sợi dây lưng đang treo lủng lẳng một cái túi da và một con dao săn, “Và bà cũng thế, Aglais.”
“Đây là ý nguyện của cô. Tôi không ép cô được.”
“Bà nói đúng. Bà không thể ép tôi được.”
***
Cô đi vào rừng, bước qua những cây thông. Cô không nhìn lại. Cô đang tức giận.
Milva biết sự kiện đã xảy ra trên đảo Thanedd vào tuần trăng đầu tiên của tháng 7, các đơn vị Scoia’tael cứ luôn mồm nói về nó. Trong buổi họp của các pháp sư đã nổ ra một cuộc bạo loạn, máu đã đổ và đầu đã rơi. Quân đội Nilfgaard ngay lập tức tấn công vào Lyria và Aedirn, chiến tranh nổ ra. Ở Temeria, Kaedwen và Redania, mọi tội lỗi đều đổ lên đầu Sóc. Đầu tiên, bởi vì rõ ràng là Scoia’tael đã tới hỗ trợ các pháp sư và quân nổi loạn trên Thanedd. Thứ hai, bởi vì Vizimir, vua của Redania, đã bị sát hại bằng một con dao dưới tay một người elves hay nửa-elves. Vậy nên con người ghét Sóc. Ở khắp nơi, nỗi căm thù sôi sục, và một dòng sông máu elves tuôn chảy...
Ha, cô nghĩ, có lẽ đó là sự thật, những gì mà các thầy tu suốt ngày lải nhải, rằng tận thế sắp đến và Ngày Phán Xét đang tới gần? Thế giới đang chìm trong biển lửa, và con người trở thành như bầy sói, cắn xé không chỉ với elves, mà còn cả với nhau. Anh em đấu đá lẫn nhau...và một witcher, lẫn lộn vào mớ rắc rối này. Một witcher, mà có sứ mạng bảo vệ con người khỏi quái vật, lại đi sát hại chính con người! Kể từ khi thế giới bắt đầu, chưa từng có một witcher nào dính líu đến chính trị hay chiến tranh. Thậm chí còn có một câu truyện về một vị vua ngu xuẩn, đựng nước bằng rây lọc, chọn một con thỏ làm sứ giả, và một witcher làm thống đốc. Thế mà đây, giờ thì có một witcher bị thương nặng trong cuộc nổi loạn chống lại các vị vua, và trốn tránh hình phạt của mình ở Brokilon. Quả thật là đã đến ngày tận thế!
“Chào con, Maria.”
Cô rùng mình. Người dryad đang đứng dựa vào một cây thông, đôi mắt và mái tóc bà ánh bạc. Ánh mặt trời đang lặn tạo nên một vầng hào quang trên đầu bà, phản chiếu trên bức tường lấm chấm của khu rừng. Milva quỳ xuống, đầu cúi thấp.
“Xin chào quý bà Eithné.”
Người cai trị rừng Brokilon dắt một con dao vàng có dạng một lưỡi hái vào thắt lưng.
“Đứng lên đi,” bà nói. “Chúng ta cùng đi dạo nào. Ta muốn nói chuyện với con.”
Trong một khoảng thời gian dài, họ đi dạo qua khu rừng ẩn trong bóng tối, người dryad cao ráo đầu bạc và cô gái với mái tóc gai. Không ai muốn phá vỡ sự yên tĩnh.
“Đã lâu quá rồi con chưa về Duén Canell nhỉ, Maria.”
“Không có thời gian thưa quý bà Eithné. Bởi vì Duén Canell nằm cách xa so với con đường, và con...người biết mà.”
“Ta biết. Con có mệt không?”
“Những người elves cần giúp đỡ. Vậy nên con giúp họ, đúng như lệnh của người.”
“Đúng như yêu cầu của ta.”
“Chính xác là như vậy, đúng như yêu cầu của người.”
“Ta có một yêu cầu nữa.”
“Đúng như con nghĩ. Là về witcher phải không?”
“Hãy giúp anh ta.”
Milva dừng lại, quay đầu, và với một chuyển động chớp nhoáng bẻ gãy một cành kim ngân đang chắn đường cô. Cô xoay nó trên tay, trước khi ném xuống đất.
“Trong nửa năm nay,” cô khẽ nói, nhìn vào đôi mắt bạc của người dryad, “con đã đánh liều cái đầu của mình, con đã mang các biệt đội elves tới Brokilon.....Khi họ đã nghỉ ngơi và khi người đã chữa lành cho họ, con lại đưa họ về nhà....Như thế vẫn còn là quá ít hay sao? Con làm vẫn chưa đủ hay sao? Với mỗi kỳ trăng mới con lại dấn bước trên con đường trong đêm thâu....con sợ ánh mặt trời như dơi hay cú....”
“Không ai biết rõ khu rừng như con.”
“Ở trong rừng con sẽ không nghe được gì cả. Witcher muốn con thu thập tin tức, muốn con trà trộn vào đám đông. Hắn là một kẻ phản loạn, và nói tên hắn ra sẽ khiến lũ an’givare vểnh tai lên tức thì. Con không thể xuất đầu lộ diện trong thành phố. Nếu có ai đó nhận ra con thì sao? Những ký ức sống động vẫn còn trong tâm trí con, máu trên áo con vẫn chưa khô....Bởi vì rất nhiều máu đã đổ, thưa Eithné.”
“Rất nhiều,” đôi mắt bạc già nua của người dryad thật kỳ lạ, lạnh lùng và khó hiểu. “Quả thật là rất nhiều.”
“Người biết con mà. Con sẽ bị xiên lên một cây cọc.”
“Con rất khôn ngoan. Con thận trọng và cảnh giác.”
“Với những tin tức mà witcher muốn biết, người có thể vứt sự thận trọng sang một bên, con sẽ cần phải hỏi những câu hỏi. Những ngày này thậm chí tỏ ra tò mò cũng là quá nguy hiểm. Nếu chúng bắt được con....”
“Con có nhiều đầu mối....”
“Chúng sẽ tra tấn con. Giết con. Hoặc con sẽ mục xác trong ngục Drakenborg....”
“Con nợ ta.”
Milva quay đầu đi, cắn môi.
“Vâng,” cô nói cay đắng. “Con không được phép quên.”
Cô nhắm mắt lại, gương mặt đột nhiên nhăn nhúm, môi run rẩy, răng nghiến chặt. Bên dưới mí mắt nhợt nhạt thấm đẫm ánh trăng là những ký ức ma mị về đêm đó. Lại lần nữa cảm thấy cơn đau bất chợt trên mắt cá chân, kẹt trong sợi dây da, cơn đau bắn lên đầu gối. Âm thanh của cây cối xào xạc rung rinh bên tai cô....những tiếng kêu, rên rỉ, hoang dại và hoảng loạn, nỗi sợ túm chặt lấy cô khi cô nhận ra rằng mình không thể thoát được....gào thét và hoảng sợ, sợi dây thừng đen đúa và xoắn vặn, đung đưa, cảnh vật lộn ngược, cơn đau, máu dồn lên thái dương cô.....
Và tới bình minh, các dryad đứng thành một vòng tròn.....Những tiếng cười đùa từ xa....Một con rối đung đưa trên dây! Quay đi, quay đi rối, đầu chúi xuống....Và tiếng khóc của chính cô, thật lạ lùng. Và rồi bóng tối.
“Đúng, con vẫn mắc nợ,” cô nói qua hàm răng nghiến chặt. “Đúng, con đã được cứu nhờ bàn tay rộng lượng của người. Con thấy là trong khi mình vẫn còn sống, con sẽ không thể trả hết được món nợ này.”
“Ai cũng đều mắc nợ,” Eithné nói. “Cuộc sống là vậy đó, Maria Barring. Nợ nần, trách nhiệm,...làm gì đó cho ai đó. Hay cho chính bản thân mình? Bởi vì trong thực tế, ta luôn tự trả giá cho bản thân ta, chứ không phải ai khác. Mỗi món nợ đều trả cho ta. Trong mỗi chúng ta đều là người mắc nợ và chủ nợ. Điều quan trọng là chúng ta đã đồng ý với cái giá đó. Chúng ta đến với thế giới này với chút sinh mạng trong tay, và rồi tất cả những gì ta làm là mắc nợ và trả nợ. Cho chúng ta. Vì chúng ta. Cho đến khi món nợ kết thúc.”
“Người đàn ông này...witcher...anh ta có quan trọng với người không, Eithné?”
“Có. Mặc dù anh ta không nhận ra. Hãy trở về Col Serrai, Maria Barring. Đi đi và làm những gì anh ta yêu cầu.”
***
Từ một bụi cây, có tiếng cành gãy. Những con chim bắt đầu ríu rít, “check-check”. Từng đàn mai và sẻ bay lên, những chiếc lông đuôi trắng lập lòe. Milva thở gấp. Cuối cùng.
“Check-check”, một con sẻ ríu rít. “Check-check-check.” Lại lần nữa, tiếng cành gãy.
Milva chỉnh lại băng cổ tay, được buộc bằng một bó sợi dây da. Cô đưa tay vào ống tên để trên đùi. Theo bản năng, cô kiểm tra đầu và đuôi mũi tên. Đầu mũi tên cô mua ở chợ - cô luôn chọn bừa một trong mười cái được chào mời – nhưng lại luôn tự đính lông vũ cho từng mũi tên của mình. Những mũi tên làm sẵn luôn có phần lông vũ quá ngắn và xếp thẳng theo trục mũi tên, trong khi Milva luôn xếp theo hình xoắn ốc và không có cái nào ngắn hơn 10 phân.
Cô tra một mũi tên vào cung, và nhìn ra ngoài con suối nằm giữa một đám nhân sâm tươi và một bụi dâu đỏ nổi bật lên so với cây cối xung quanh.
Những con mai bay không quá xa, lại tiếp tục bài hát của chúng.
Lại đây nào, hươu con, cô nghĩ, nhấc cao cây cung và kéo dây. Lại đây nào, ta sẵn sàng rồi.
Nhưng con hươu chạy ra xa khỏi bờ suối, hướng về phía con mương lầy lội chảy vào dòng Ribbon. Con hươu nổi bật trên nền thung lũng. Một con vật tuyệt đẹp. Qua một cái liếc có thể thấy nó nặng tầm 20 cân. Nó ngẩng đầu dậy, vểnh tai lên, sau đó quay ra phía bụi cây và dẫm nát vài chiếc lá.
Bắn nó từ phía sau sẽ dễ hơn. Nếu không phải vì cái cây đang chắn tầm nhìn của Milva thì cô đã bắn luôn rồi. Kể cả khi cắm vào bụng con thú, đầu mũi tên vẫn có thể xuyên qua tim, phổi hay thận. Khi cắm vào đùi, nó có thể cắt đứt động mạch, và con thú sẽ sớm khuỵu xuống. Cô chờ đợi, chưa vội bắn.
Con hươu lại ngẩng đầu lên, bước vài bước, đi ra sau cái cây, tiến lại gần thật chậm rãi. Milva, vẫn giữ dây cung căng hết mức, nguyền rủa khe khẽ. Phát bắn từ đằng trước có thể không hiệu quả: thay vì chọc thủng phổi, mũi tên sẽ chỉ xuyên qua bụng. Cô chờ đợi, nín thở, cảm thấy vị mặn của lông vũ ở khóe miệng. Đây là một lợi thế gần như vô giá của cây cung này – với một cây cung nặng hơn, cô không thể giữ dây căng được lâu đến vậy mà không ảnh hưởng đến lực cổ tay và độ chính xác.
May mắn thay, con hươu cúi đầu xuống, gặm vài ngọn cỏ, quay sang bên. Milva thở điềm tĩnh, nhắm vào ngực nó, và nhẹ nhàng thả dây cung.
Nhưng cô không nghe thấy tiếng xương sườn vỡ vụn như đã tưởng. Con hươu nhảy lên, đá chân sau và biến mất với âm thanh của cành gãy và lá rụng.
Milva ngồi bất động trong vài giây, như bức tượng cẩm thạch của một nữ thần rừng. Chỉ khi mọi âm thanh đã lắng xuống, cô mới bỏ tay phải ra khỏi má, hạ cung xuống. Ghi nhớ lại đường đi của con thú, cô ngồi yên ở đó, tựa lưng vào thân cây. Cô là một thợ săn dày dạn, đã đi dạo hết cả khu rừng từ khi còn nhỏ, bắn con nai đầu tiên năm 11 tuổi, và một con hươu 14 sừng – một điềm báo cực kỳ may mắn đối với thợ săn – vào sinh nhật thứ 14. Và kinh nghiệm đã dạy cô rằng đuổi theo một con thú đang bị thương là vô nghĩa. Nếu bắn chuẩn, con vật sẽ ngã xuống sau 200 bước chân. Nếu bắn tồi – thực ra cô cũng không thể loại bỏ khả năng này – thì đuổi theo chỉ làm cho mọi việc tệ hơn. Khi đã hoảng loạn, một con thú bị thương nếu không bị truy đuổi, sẽ đi chậm lại. Trong khi một con vật bị bám đuôi sẽ chạy thục mạng và không dừng lại trong một thời gian dài.
Milva có ít nhất nửa giờ. Cô dứt một ngọn cỏ trên mặt đất và lại chìm vào ký ức.
***
Sau 12 ngày, cô quay lại Brokilon, witcher đã bắt đầu đi lại. Anh ta hơi cà nhắc và lết chân, nhưng vẫn đi được. Milva không thấy ngạc nhiên – cô biết rõ khả năng chữa trị kỳ diệu của nước rừng và conynhael. Cô cũng biết cả tài năng của Aglais, vì đã từng không chỉ một lần chứng kiến quá trình hồi phục chớp nhoáng của các dryad bị thương. Và, dĩ nhiên là những lời đồn về sức khỏe và khả năng chịu đựng phi thường của các witcher không hề là bịa đặt tí nào.
Khi trở về, người dryad đã không ngay lập tức đến Col Serrai, mặc dù biết rằng Gwynbleidd đang nóng lòng chờ đợi. Cô chủ đích trì hoãn cuộc gặp, vẫn không hài lòng về nhiệm vụ mình đã được giao và muốn bày tỏ sự khó chịu. Cô hộ tống các biệt đội Scoia’tael về trại, và làm một bài diễn văn dài kể lại những sự kiện đã xảy ra, cảnh báo các dryad về vành đai ngăn chặn xung quanh biên giới của Ribbon, do con người lập ra. Chỉ khi được nhắc đến lần thứ ba, Milva mới đi tắm, thay đồ và đến gặp witcher.
Anh ta ngồi đợi cô bên rìa một khoảng rừng thưa, nơi những cây bách hương mọc cao vút. Anh ta thỉnh thoảng đi lại, ngồi xuống, rồi chỉnh trang quần áo. Rõ ràng là Aglais đã gợi ý nên vận động một chút.
“Có tin gì?” Anh ta hỏi ngay khi họ gặp mặt. Tuy nhiên, sự lạnh lùng trong giọng nói đó không thể đánh lừa được Milva.
“Chiến tranh đang đến hồi hết, có lẽ vậy,” cô bắt đầu, nhún vai. “Họ nói Nilfgaard gần như đã phá hủy hoàn toàn Lyria và Aedirn. Verden đã xin hàng và đức vua của Temeria đã ký một thỏa thuận với Nilfgaard. Những người elves của Thung Lũng Ngàn Hoa đã thiếp lập một vương quốc riêng của họ. Nhưng các đơn vị Scoia’tael ở Temeria và Redania đã không định cư ở đó. Họ tiếp tục chiến đấu...”
“Đó không phải thứ mà tôi muốn biết.”
“Không sao?” cô giả vờ ngạc nhiên. “Ừ thì....được rồi. Tôi đã tới Dorian, như anh yêu cầu, mặc dù đường đi khá xa. Và các con đường giờ không an toàn....”
Cô ngừng lại. Lần này anh giục cô tiếp tục.
“Cái tay Codringher này,” cuối cùng cô hỏi, “mà anh nhờ tôi đến thăm, có phải là bạn anh không?”
Gương mặt của witcher không thay đổi, nhưng Milva biết là anh ta hiểu.
“Không.”
“Tốt,” cô tiếp tục. “Bởi vì anh ta không còn ở trong số những người đang sống nữa. Anh ta cùng toàn bộ nơi làm việc đã bị thiêu ra tro, những gì còn lại chỉ là ống thông khói và một phần bức tường. Cả thị trấn Dorian đều xôn xao bàn tán. Có người nói tay Codringher này đã thực hành phép phù thủy và giao kèo với quỷ dữ, vậy nên hắn bị lửa địa ngục thiêu đốt. Có kẻ nói anh ta đã chõ mũi vào không đúng nơi đúng lúc như mọi khi, đương nhiên là đã chọc giận một vài thành phần vô lại, nên chúng đơn giản giết anh ta và phóng hỏa để che dấu vết. Vậy còn anh, anh nghĩ sao?”
Cô không nhận được phản hồi nào, và cũng không thể đọc được nét mặt của witcher, trông hoàn toàn lãnh cảm. Thế nên cô tiếp tục, mà không đánh mất chất giọng nham hiểm và kiêu ngạo của mình.
“Kỳ lạ là cái chết của Codringher xảy ra vào tuần trăng đầu tiên của tháng 7, chính xác cùng thời điểm với cuộc nổi loạn trên đảo Thanedd. Như thể có người đã đoán rằng Codringher biết gì đó về chuyện này, và sẽ bị xét hỏi sau khi vụ việc kết thúc. Như thể có người muốn bịt miệng anh ta vĩnh viễn, trước khi anh ta kịp mở mồm hé lộ ra điều gì đó. Anh nói sao hả? Ha, tôi thấy là anh không muốn nói gì. Vì anh đã thờ ơ như vậy, tôi sẽ nói luôn: cái trò nghịch dại nho nhỏ của anh, cái trò rình mò và do thám này của anh rất là nguy hiểm. Họ rồi sẽ muốn khâu miệng và cắt tai những kẻ như Codringher. Chí ít ra thì, bản thân tôi thấy vậy.”
“Tôi xin lỗi,” anh ta lên tiếng sau một lúc. “Cô nói đúng. Tôi đã khiến cô phải liều lĩnh. Đây là một công việc quá nguy hiểm đối với....”
“Một người phụ nữ, có phải không?” Cô lắc đầu, hất mái tóc vẫn đang ẩm ướt ra đằng sau. “Đó có phải điều anh đang định nói không? Trời ơi, tôi đã gặp được một quý ông đích thực đây nhỉ! Anh có bị ngu không? Mặc dù tôi phải ngồi xuống để đái, nhưng áo tôi vẫn làm từ da sói, không phải thỏ! Đừng coi tôi là một kẻ hèn nhát, anh chẳng biết gì về tôi hết!”
“Tôi biết,” anh ta nói khẽ và điềm tĩnh, có vẻ không màng đến cơn giận của cô, “Cô, Milva, đã giúp các đội Sóc thoát khỏi cái chết và mang họ đến Brokilon. Tôi biết cô can đảm. Nhưng vẫn liều lĩnh và ích kỷ ép cô phải....”
“Đồ ngu!” Cô cáu kỉnh ngắt lời. “Anh đừng có lo cho tôi, mà lo cho cái thân mình đi kìa. Càng sớm càng tốt!”
Cô cười khinh khỉnh, bởi vì lần này, nét mặt anh ta đã thay đổi. Cô cố ý giữ im lặng, chờ đợi được hỏi thêm.
“Cô biết những gì?” Cuối cùng anh ta lên tiếng. “Và từ ai?”
“Anh có Codringher của anh,” cô khịt mũi, tự hào ngẩng cao đầu. “Tôi có các mối liên lạc của tôi. Những người tinh mắt và thính tai.”
“Nói đi. Làm ơn, Milva.”
“Theo sau cuộc nổi loạn trên đảo Thanedd,” cô bắt đầu sau một lúc im lặng, “sự việc nóng lên ở khắp mọi nơi. Cuộc săn lùng những kẻ phản bội bắt đầu. Đặc biệt là các pháp sư đã gia nhập cùng Nilfgaard, và vài tên lính đánh thuê khác nữa. Một số bị bắt. Số còn lại biến mất, như đá chìm xuống đáy hồ. Cũng chẳng cần phải là thiên tài mới biết họ trốn đi đâu, đang nấp dưới vòng tay che chở của ai. Nhưng không chỉ có pháp sư và kẻ phản bội bị săn đuổi. Cuộc nổi loạn đã được tiếp tay bởi một nhóm Sóc, được chỉ huy bởi chính Faoiltiarna lừng danh. Ông ta cũng đang bị truy nã. Một mệnh lệnh đã được ban ra rằng bất kỳ người elves nào bị bắt sống đều phải bị tra tấn và hỏi cung về Faoiltiarna.”
“Cái tay Faoiltiarna này là ai?”
“Một người elves, Scoia’tael. Ông ta đã khiến cuộc sống của khá nhiều người trở nên khó khăn. Đầu ông ta được treo một cái giá khá cao. Và đó không chỉ là cái đầu duy nhất đang bị truy lùng. Họ cũng đang săn một hiệp sĩ Nilfgaard nào đó, mà đã ở trên Thanedd. Thế nhưng....”
“Nói đi.”
“Lũ an’givare cũng đang hỏi về một witcher tên Geralt xứ Rivia và một đứa bé gái tên Cirilla. Chúng được lệnh bắt sống hai người đó. Bất kỳ kẻ nào động đến một sợi tóc hay cái cúc áo trên người họ đều sẽ bị xử tử. Ha! Anh chắc hẳn rất thân thương với họ bởi vì họ quan tâm đặc biệt đến sức khỏe của anh....”
Cô ngừng lại, nhìn thấy biểu cảm trên gương mặt anh ta, mà bỗng nhiên trở nên điềm tĩnh đến mức bất thường. Cô nhận ra rằng mặc dù cố gắng, cô vẫn không làm anh ta sợ được. Ít ra là về cái mạng của mình. Đột nhiên, cô thấy xấu hổ.
“Chà, cuộc săn của họ sẽ vô ích thôi.” Cô nói mềm mỏng hơn, nhưng vẫn giữ một nụ cười mỉa mai trên khóe môi. “Anh sẽ được an toàn ở Brokilon. Và họ sẽ không bắt sống được đứa bé gái đâu. Khi lục soát đống tàn tích trên Thanedd, tòa tháp ma thuật đó, mà đã sụp đổ hoàn toàn....Này! Có chuyện gì thế?”
Witcher lảo đảo, dựa vào một cây bách hương, rồi nặng nề gục xuống một gốc cây đổ. Milva nhảy dựng lên, hoảng loạn vì sắc trắng bỗng bao trùm lên gương mặt anh ta.
“Aglais! Sirssa! Fauve! Lại đây nhanh! Chết tiệt, cái chết đang đến tìm anh ta! Nhanh lên!”
“Đừng gọi họ....tôi không sao đâu. Nói đi, tôi muốn biết....”
Milva đột nhiên hiểu ra.
“Họ không tìm thấy gì cả!” Cô la lên, cảm thấy giờ đến lượt mình nhợt nhạt. “Không gì cả! Họ đã lật tung từng hòn đá và thực hiện mọi câu thần chú, nhưng không tìm ra....”
Cô lau mồ hôi trên trán, và ra hiệu với các dryad đang chạy lại. Cô ôm lấy vai witcher, vẫn đang ngồi dưới đất, và tựa vào người anh, mái tóc vàng dài của cô vuốt lên mặt anh.
“Anh hiểu nhầm rồi,” cô nhắc lại thật nhanh, vụng về, cảm thấy khó để lựa chọn đúng từ để nói trong cơn lũ câu chữ có vẻ đang dâng lên trong miệng. “Tôi chỉ muốn nói là....anh đã hiểu sai ý tôi. Bởi vì tôi....làm sao tôi biết được anh lại....không....tôi không chủ đích làm vậy. Tôi chỉ nói là đứa bé gái.....họ sẽ không tìm thấy cô bé, bởi vì cô bé đã biến mất không dấu vết, như các pháp sư. Tôi xin lỗi.”
Anh không trả lời. Anh nhìn sang bên. Milva cắn môi, tay nắm chặt.
“Ba ngày nữa tôi sẽ rời Brokilon.” Cô nhẹ nhàng tuyên bố sau một khoảng thời gian thật dài im lặng. ‘Đến khi hết trăng rằm, khi đêm tối hơn một chút. Sau mười ngày tôi sẽ quay lại, có thể sớm hơn. Ngay sau Lammas, ngày đầu tiên của tháng 8. Đừng lo. Kể cả có phải dời non lấp bể, tôi cũng sẽ tìm cho ra mọi thứ. Nếu có bất cứ ai biết về cô bé, anh cũng sẽ biết.”
“Cảm ơn, Milva.”
“Mười ngày....Gwynbleidd.”
“Tôi là Geralt.” Anh nói, chìa tay ra.
Cô bắt lấy nó thật chặt, không ngần ngại.
“Tôi là Maria Barring.”
Với một cái gật đầu và một nụ cười mỉm trên mặt, anh cảm ơn cô vì sự thành thực. Cô biết anh rất trân trọng điều đó.
“Làm ơn hãy cẩn thận. Hãy để ý mình đang nói chuyện với ai trước khi đặt câu hỏi.”
“Đừng lo cho tôi.”
“Mối liên lạc của cô....Cô có tin họ không?”
“Tôi không tin ai hết.”
***
“Witcher đang ở Brokilon. Cùng với các dryad.”
“Phải, ta cũng nghĩ vậy.” Dijkstra gấp hai tay trước ngực. “Nhưng được xác nhận hẳn hoi cũng tốt.”
Ông ta im lặng trong một lúc lâu. Lennep liếm môi. Chờ đợi.
“Chà, được xác nhận hẳn hoi thật là tốt.” Người đứng đầu cơ quan tình báo của Redania lặp lại, trầm ngâm, như thể đang nói với chính mình. “Biết chắc luôn tốt hơn. Eh, nếu hóa ra Yennefer lại ở cùng với anh ta....Không có nữ pháp sư nào ở cùng anh ta sao, Lennep?”
“Cái gì?” gã gián điệp giật mình. “Không, thưa ngài. Không có nữ pháp sư nào hết. Mệnh lệnh là gì đây? Nếu ngài muốn hắn sống, tôi sẽ lùa hắn ra khỏi Brokilon. Tuy nhiên, nếu hắn chết mà được nhiều tiền hơn thì....”
“Lennep,” Dijkstra nhìn gã gián điệp với cặp mắt lạnh lùng, lấp lánh. “Đừng hăm hở như thế. Trong cái nghề của chúng ta, nóng vội không được ích gì cả. Mà lại luôn khiến ta có vẻ đáng nghi ngờ.”
“Nhưng thưa ngài,” Lennep hơi tái đi. “Tôi chỉ muốn....”
“Ta biết. Ngươi chỉ đang hỏi mệnh lệnh của ta là gì. Nó đây: hãy để mặc witcher.”
“Như ngài yêu cầu. Vậy còn Milva?”
“Cũng để mặc cả cô ta nữa. Trong lúc này....”
“Như ngài yêu cầu. Tôi lui được chưa?”
“Ngươi có thể.”
Gã gián điệp rời khỏi phòng, cẩn thận và khẽ khàng đóng lại cánh cửa gỗ sồi. Dijkstra im lặng trong một lúc lâu, nhìn chằm chằm vào đống giấy tờ, bản đồ, thư từ, cáo trạng, thông tư và lệnh tử hình vứt lộn xộn trên bàn.
“Ori!”
Người thư ký ngẩng đầu lên và ho một tiếng, hắng giọng, nhưng vẫn giữ im lặng.
“Witcher đang ở Brokilon.”
Ori Reuven lại ho lần nữa, liếc nhìn cái bàn theo bản năng, và hạ tầm mắt xuống cặp chân thò ra bên dưới nó. Dijkstra cũng nhìn theo.
“Đúng thế đó. Tôi vẫn chưa tha cho hắn đâu.” Ông ta làu bàu. “Hai tuần, tôi không thể đi lại được. Hắn khiến tôi mất mặt trước Philippa – tôi đã phải rên rỉ như một con chó và cầu xin đến mấy trò phù phép quái quỷ của cô ta, nếu không thì tôi vẫn đang lê lết rồi. Chà, đáng ra bản thân tôi cũng không nên đánh giá thấp hắn. Nhưng phần tệ nhất là, tôi thậm chí còn chẳng thể đập cho hắn một trận để trả thù, tôi không có thời gian, và cũng không thể sử dụng nhân lực để dàn xếp ân oán cá nhân được. Tôi không thể, đúng không Ori?”
“Hem, hem....”
“Không cần phải nói. Tôi biết. Ah, chết tiệt, thứ quyền lực đó mới cám dỗ ra làm sao! Tôi rất ngứa ngáy muốn được dùng nó. Rất dễ quên là nó hiện hữu ở đó, nhưng nếu ông dùng, sẽ chẳng có giới hạn nào cả.....Philippa Eilhart vẫn đang chui nhủi ở Montecalvo à?”
“Phải.”
“Hãy lấy giấy và mực. Tôi sẽ viết một lá thư cho cô ta. Viết là....chết tiệt, tôi chẳng thể nào tập trung được. Mấy cái tiếng la hét quái quỷ nào vậy, Ori? Đang xảy ra chuyện gì ở quảng trường thế?”
“Sinh viên đang ném đá vào nhà riêng của đại sứ Nilfgaard. Chúng ta đã trả tiền cho chúng để làm vậy, hem, hem, tôi nghĩ thế.”
“Aha. Được rồi. Đóng cửa sổ lại đi. Ngày mai chúng sẽ đi quăng bom ngân hàng của gã người lùn Giancardi. Lão đã từ chối tiết lộ cho tôi ai có tài khoản ở đấy.”
“Giancardi, hem, hem, chi trả một phần rất lớn chi phí chiến tranh.”
“Ha. Vậy thì để lũ sinh viên đi ném đá mấy cái ngân hàng chẳng chịu cho cái khỉ khô gì hết.”
“Tất cả bọn họ đều đã cho một cái gì đấy.”
“Ah, nói chuyện với ông chán bỏ mẹ, Ori. Viết đi, tôi đọc. “Phil thân yêu của tôi, mặt trời của....”. Chết tiệt, dạo này tôi hay lú lẫn quá. Lấy một tờ giấy mới đi. Sẵn sàng chưa?”
“Rồi, hem, hem.”
“Philippa thân mến. Cô Triss Merigold chắc chắn là đang rất lo lắng cho số phận của witcher, mà cô ấy đã dịch chuyển từ Thanedd đến Brokilon. Việc cô ấy giữ kín chuyện này ngay cả với chính tôi, khiến tôi đau lòng vô cùng. Nhưng cứ việc trấn an cô ấy. Witcher hiện giờ đang rất khỏe. Anh ta thậm chí còn bắt đầu cử một sứ thần của Brokilon ra ngoài với mục đích tìm kiếm tung tích của công chúa Cirilla, người mà tất cả các cô đều đang rất có hứng thú muốn gặp mặt. Tuy nhiên, anh bạn Geralt của chúng ta có vẻ như không biết rằng Cirilla hiện giờ đang ở Nilfgaard, chuẩn bị làm lễ kết hôn với Hoàng đế Emhyr. Witcher chắc hẳn đang rất nóng ruột khi ngồi không như vậy ở Brokilon, nên tôi sẽ cố gửi tin này đến cho anh ta.” Ông viết xong chưa?”
“Hem, hem,....gửi tin này đến cho anh ta.”
“Xuống dòng. “Tôi tự hỏi....” Chết tiệt, Ori, gạch câu đó đi! Chúng ta đang viết cho Philippa, không phải hội đồng hoàng gia, lá thư nhìn phải thật đẹp mắt! Sang đoạn mới. “Tôi tự hỏi tại sao witcher vẫn chưa liên lạc với Yennefer. Tôi thấy khó có thể tin rằng tình cảm gần như đến mức ám ảnh mà anh ta dành cho nữ pháp sư bỗng dưng tan thành mây khói, dù cho quan điểm về chính trị có khác biệt nhau như thế nào đi chăng nữa. Mặt khác, nếu Yennefer chính là người đã dẫn Cirilla đến cho Emhyr và nếu tôi tìm ra được chứng cứ ủng hộ giả thiết này, tôi cũng rất sẵn lòng chuyển thông tin đó tới cho witcher. Vấn đề sẽ được tự giải quyết, tôi chắc chắn cái đồ phản bội tóc đen xinh đẹp đó sẽ không thể đoán được ngày hay giờ tận mạng. Witcher không thích có người động vào cô con gái bé nhỏ của anh ta, Artaud Terranova đã nhận ra điều đó trên Thanedd. Tôi muốn tin rằng cô không giữ kín bằng chứng nào về sự phản bội của Yennefer cũng như nơi ở hiện giờ của cô ta, Phil. Tôi sẽ rất bực mình nếu phát hiện ra lại có người muốn giữ bí mật với mình. Tôi không giữ bí mật nào với cô cả....” Ông cười cái gì hả, Ori?”
“Không có gì! Hem, hem.”
“Viết đi! Tôi không giữ bí mật nào với cô cả, và tôi hy vọng cô cũng như vậy. Chúc sức khỏe, vân vân và vân vân.” Đây, để tôi ký.”
Ori Reuven rải cát lên bức thư. Dijkstra ngồi thoải mái, tay xếp trên bụng, và bắt đầu xoay xoay ngón cái.
“Cái cô Milva đang do thám cho witcher này,” Dijkstra hỏi, “ông có thể cho tôi biết gì về cô ta?”
“Cô ta, hem, hem,” người thư ký hắng giọng, “chịu trách nhiệm cho việc đưa những người còn sống từ các băng nhóm Scoia’tael đã bị truy sát bởi quân đội Temeria tới Brokilon. Cô ta giúp những người elves trốn thoát, cho họ nghỉ ngơi và giúp họ gia nhập lại với đội của mình....”
“Đừng nói với tôi những thông tin mà ai cũng biết,” Dijkstra ngắt lời. “Tôi biết rất rõ những hoạt động của Milva, và vẫn còn muốn thu thập thêm thông tin từ chúng. Nếu không thì tôi đã quẳng cô ta cho người Temeria từ lâu rồi. Ông còn có thể cho tôi biết thêm gì về cô ta nữa? Về đời sống cá nhân?”
“Tôi tin là cô ta đến từ một ngôi làng hẻo lánh nào đó trên Upper Sodden. Tên thật của cô ta là Maria Barring. Milva là một bí danh, được đặt cho cô ta bởi người dryad. Trong Cổ Ngữ nó nghĩa là....”
“Cánh diều.” Dijkstra ngắt lời. “Tôi biết.”
“Cô ta xuất thân trong một gia đình thợ săn. Nghiệp săn bắn được truyền từ đời cha đến con trai. Khi người con trai cả đã mất trong một tai nạn, ông già Barring quyết định truyền lại nghệ thuật đi rừng cho đứa con gái. Khi ông ta chết, bà mẹ cô ta đã lấy chồng khác. Hem, hem...Maria không ưa cha dượng của mình và đã chạy khỏi nhà. Khi đó, tôi nghĩ là cô ta mới 16 tuổi. Cô ta lên phía bắc, sống nhờ vào việc săn thú và hái lượm, nhưng cuộc sống đơn độc trong rừng không dễ chút nào. Nên cô ta bắt đầu mon men đến gần Brokilon, và ở đó, những người dryad đã bắt được cô ta.”
“Và thay vì giết, họ đã để cô ta đi,” Dijkstra lầm bầm, “coi cô ta như người của mình. Còn về Milva....cô ta phải đáp trả lại ân huệ. Cô ta đã lập một giao kèo với Phù thủy rừng Brokilon, với quý bà Eithne Mắt Bạc. Maria Barring đã chết, Milva muôn năm....Cô ta đã thực hiện được bao nhiêu chuyến đi trước khi người của ông ở Verden và Kerack phát hiện ra sự thật? Ba?”
“Hem, hem,....bốn, tôi nghĩ thế,....” mặc dù có một trí nhớ tuyệt hảo, Ori Reuven vẫn sợ nhầm lẫn. “Tổng cộng khoảng 500 con người, bao gồm những kẻ săn lùng dryad ráo riết nhất. Chúng ta đã không hiểu được chuyện gì xảy ra trong một khoảng thời gian dài bởi vì đôi lúc Milva tự tay cõng một kẻ sống sót nào đó ra khỏi trận thảm sát, và ơn trời, những ai sống sót đều ca tụng lòng dũng cảm của cô ta. Chỉ đến lần thứ tư, tôi nghĩ là ở Verden, cuối cùng mới có người vỗ tay lên trán: “Sao lại thế nhỉ?”, họ đột nhiên hiểu ra, hem, hem, “ả đàn bà đã tụ tập con người lại để truy lùng dryad, lại luôn là người duy nhất còn sống?” Và thế là cô ta bị phát giác, đúng là cô ta đã dẫn dắt họ thật, nhưng mà là thẳng vào một cái bẫy, bên dưới những mũi tên của dryad đang phục sẵn....”
Dijkstra đẩy một bản cáo trạng ra mép bàn, có vẻ như tờ giấy vẫn còn sặc mùi của phòng tra tấn.
“Và rồi,” ông ta đoán, “Milva biến mất vào Brokilon không một dấu vết. Những ngày này ở Verden đúng là rất khó để tìm người tình nguyện dẫn đoàn đi truy lùng dryad. Già và trẻ, Eithne và Milva là một cặp ăn ý đó chứ. Thế mà họ dám nói chỉ con người mới phát minh ra những mưu kế bẩn thỉu. Nhưng có lẽ....”
“Hem, hem?” Ori lầm bầm, ngạc nhiên vì sự im lặng kéo dài của cấp trên.
“Có lẽ họ đã bắt đầu học tập từ các phương pháp của ta rồi cũng nên.” Người gián điệp lạnh lùng kết thúc, nhìn vào những xấp cáo trạng, biên bản điều trần và lệnh tử hình để trên bàn.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện