[Việt Nam] Sơ Thảo Lịch Sử Phong Trào Cộng Sản Ở Đông Dương
Chương 8 : Tiến tới Bônsơvích hóa toàn Đảng: Công việc của Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương (14-10 đến cuối tháng 10-1930)
Người đăng: Lịch sử Việt Nam
Ngày đăng: 16:54 15-12-2018
.
PHẦN THỨ BA
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG
(Thống nhất từ ngày 6-1-1930)
Chương VIII
TIẾN TỚI BÔNSƠVÍCH HOÁ TOÀN ĐẢNG
II- CÔNG VIỆC CỦA HỘI NGHỊ TOÀN THỂ LẦN THỨ NHẤT CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG (14-10 đến cuối tháng 10-1930)
1. Hội nghị bônsơvích hoá - Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương khai mạc ngày 14-10-1930 và kéo dài trên mười ngày. Hội nghị đã tổng kết công tác của Đảng và phong trào cách mạng kể từ ngày thống nhất Đảng (6-1-1930) trở đi, phê phán rất nghiêm khắc những sai lầm của Hội nghị thống nhất và của toàn Đảng từ ngày mồng 6-1-1930, quy định những nhiệm vụ chính trị của Đảng, đề ra những hình thức và phương pháp tổ chức, đấu tranh cho Đảng cũng như cho các tổ chức quần chúng trợ thủ của Đảng.
Hội nghị toàn thể lần thứ nhất đã ra quyết nghị về những vấn đề chủ yếu sau đây: tình hình kinh tế và chính trị trong nước và nhiệm vụ cấp bách của Đảng, phong trào thanh niên, phụ nữ, vấn đề công hội, vấn đề nông vận, công tác binh vận, cứu tế đỏ và Mặt trận phản đế. Những văn kiện quan trọng nhất, cố nhiên là “Những nhiệm vụ cấp bách của Đảng Cộng sản” và “Dự thảo luận cương chính trị của Đảng Cộng sản”.
Mặc dù có phạm phải một số sai lầm và thiếu sót (mà chúng ta sẽ phê phán), Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương rõ ràng là một bước tiến lớn đầu tiên tới chỗ bônsơvích hoá toàn Đảng, tới chỗ thống nhất tư tưởng chiến lược và sách lược cộng sản ở Đông Dương. Trong tất cả những vấn đề chủ yếu, Ban Chấp hành Trung ương đã đi theo đường lối lêninnít của Quốc tế Cộng sản. Chính Hội nghị toàn thể đã thực hiện lần đầu tiên những nghị quyết chính trị của Quốc tế Cộng sản về Đông Dương.
Trước Hội nghị toàn thể lần thứ nhất, đường lối chính trị của Quốc tế Cộng sản không được chấp hành, bởi vì: a) cương lĩnh của Hội nghị thống nhất trái với đường lối chính trị của Quốc tế Cộng sản; b) một số đồng chí lãnh đạo ở Bắc Kỳ nói một cách sai lệch rằng Quốc tế Cộng sản không thể ra những chỉ thị cụ thể cho Đảng Cộng sản Đông Dương được; c) Xứ ủy Nam Kỳ nhiều lần từ chối không chịu nghiên cứu những chỉ thị tháng 12-1929 của Quốc tế Cộng sản, viện lý do một cách cơ hội chủ nghĩa rằng cương lĩnh chính trị của Hội nghị thống nhất đã là một “bản sao chép” những chỉ thị đó rồi.
Hội nghị toàn thể lần thứ nhất đã phê phán tất cả những quan điểm cơ hội chủ nghĩa ấy, đã áp dụng những biện pháp kỷ luật cương quyết nhất đối với các đồng chí chủ trì những quan điểm nói trên, và đã thực hiện một đường lối chính trị mới phù hợp với chiến lược và sách lược của chủ nghĩa bônsơvích. Vì vậy chúng ta có thể gọi Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương là một hội nghị bônsơvích hoá tư tưởng Đảng. Công lao lớn nhất trong công cuộc bônsơvích hoá này, là của đồng chí Lý Quý, nguyên Tổng Bí thư Đảng ta, bị giết hại trong nhà tù Sài Gòn vào cuối năm 1931.
2. Lập trường đối với các giai cấp và đảng phái - Hội nghị toàn thể bắt đầu luận cương và nghị quyết của mình bằng một đoạn phân tích lêninnít về tình hình quốc tế. Hội nghị vạch rõ những đặc điểm của ba giai đoạn thuộc thời kỳ sau chiến tranh đối với chế độ tư bản, phong trào cách mạng ở các nước tư bản và thuộc địa, và Liên Xô. Khi chuyển qua tình hình trong nước, Hội nghị đã phân tích những nét đặc thù của nền kinh tế Đông Dương, về sinh hoạt vật chất và chính trị của các giai cấp cần lao.
Sau khi phân tích phong trào cách mạng trong mười tháng đầu của năm 1930, nêu bật nội dung phản động của chính sách hai mặt vừa khủng bố, vừa cải cách của chủ nghĩa đế quốc Pháp, Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương đã đi đến kết luận là cuộc đấu tranh giai cấp của công nhân và nông dân “ngày càng có tính chất kiên quyết, chính trị và tổ chức, ngày càng chịu ảnh hưởng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc”.
Chính là căn cứ vào cuộc đấu tranh cách mạng của các giai cấp cần lao mà Hội nghị nhận định như sau: về các quan hệ giai cấp: “Địa chủ là phản cách mạng, đó là lẽ tự nhiên; một bộ phận tư bản bản xứ (dân biểu, hội đồng thành phố) đứng về phe bọn đế quốc, chúng công khai thù địch với công nhân và nông dân, nhiều lần chúng đã hợp tác với bọn đế quốc và các đảng phái phản cách mạng nhằm đàn áp công nhân và nông dân đấu tranh); một bộ phận khác có xu hướng quốc gia cải lương, muốn lợi dụng phong trào cách mạng; một mặt, chúng yêu cầu đế quốc thực hiện một số cải cách về chính trị và kinh tế nhằm tăng thêm quyền lực cho chúng (yêu cầu ban hành hiến pháp, nhượng địa, v.v.); mặt khác, chúng đề xướng sự hợp tác giữa tư bản và công nhân bản xứ, giả vờ yêu cầu những cải cách để cải thiện đời sống cho công nhân và nông dân. Mục đích của chúng là nhằm lừa phỉnh quần chúng và phá hoại phong trào cách mạng” (Nghị quyết về những nhiệm vụ cấp thiết của Đảng Cộng sản). Hội nghị nhận định rằng nguy cơ lớn nhất đối với phong trào cách mạng là ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia cải lương, cho nên đã căn dặn cần phải đấu tranh chống ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia cải lương. Mặc dù Hội nghị đã có những nghị quyết như vậy, mặc dù Quốc tế Cộng sản luôn luôn nhấn mạnh trong các nghị quyết của mình đến việc xem chủ nghĩa quốc gia cải lương như một trong những mối nguy cơ nghiêm trọng ở trong Đảng ta, nhưng chúng ta cũng buộc phải thấy rằng trong suốt cả quá trình của cuộc đấu tranh do Đảng ta tiến hành, chúng ta vẫn đánh giá thấp chủ nghĩa quốc gia cải lương.
Cả một loạt sự kiện đã chứng minh rằng Đảng chưa nhận thức được đầy đủ nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc cải lương, Đảng chưa tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa dân tộc cải lương. Đảng chưa giải thích cho quần chúng hiểu rõ bản chất phản bội, chống nhân dân của chủ nghĩa dân tộc cải lương.
Ngay cả khi nó không tác động nhiều lắm ở trong đời sống xã hội, chủ nghĩa dân tộc cải lương vẫn không ngừng là một mối nguy cơ rất nghiêm trọng luôn luôn tìm cách phá hoại phong trào cách mạng. Dựa vào lực lượng và ảnh hưởng của những giai cấp hữu sản, dựa vào sức ủng hộ trực tiếp và những mưu mô của chủ nghĩa đế quốc Pháp, chủ nghĩa dân tộc cải lương ở Đông Dương đã nhiều lần đứng ra mưu toan cầm đầu để nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng. Nhằm mục đích đó, trong tương lai, nhất là khi phong trào cách mạng tiến thêm một bước, nhất định bọn chúng sẽ hoạt động mãnh liệt hơn nữa, xảo quyệt hơn nữa, mãnh liệt và xảo quyệt hơn bao giờ hết so với từ trước đến nay ở Đông Dương. Đã có những triệu chứng chỉ rõ khả năng hoạt động của chủ nghĩa dân tộc cải lương và việc nó tăng cường phá hoại tổ chức trong quần chúng. Bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong công cuộc đấu tranh cách mạng không thể nào thực hiện được có hiệu quả nếu không thanh toán triệt để mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc cải lương trong quần chúng lao động. Đồng minh của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa dân tộc cải lương rất nguy hiểm, bởi vì nó là đường lối chính trị không phải của một vài nhóm ngẫu nhiên riêng lẻ, mà là cương lĩnh hành động của giai cấp tư sản Việt Nam. Kinh nghiệm ở Trung Quốc và Ấn Độ đã nói lên tình trạng suy đồi phản cách mạng của chủ nghĩa dân tộc cải lương đó. Bản thân Đảng phải giáo dục và thử thách hàng ngũ của mình bằng một cuộc đấu tranh không mệt mỏi chống lại chủ nghĩa dân tộc cải lương, một hình thức ảnh hưởng đối lập với cách mạng của giai cấp tư sản. Giờ đây khi chủ nghĩa đế quốc Pháp đang thiêu hủy hàng chục làng mạc, tàn sát hàng trăm, hàng nghìn chiến sĩ cách mạng đấu tranh cho độc lập nước nhà, thì giai cấp tư sản Đông Dương và các chính đảng của nó (Đảng Việt Nam độc lập của du học sinh tư sản thành lập ở Pari, Đảng Lập hiến, v.v. cũng đang tìm đủ mọi cách có thể tìm được hòng phá tan những phương pháp đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc (chẳng hạn như bãi công chính trị của công nhân, khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh du kích của nông dân, v.v.), và gieo rắc những ảo tưởng dân tộc cải lương trong quần chúng.
Nếu ở giai đoạn trước khi đấu tranh phản đế được đặt lên hàng đầu, bọn dân tộc cải lương hy vọng lợi dụng phong trào quần chúng của công nhân, nông dân nhằm mưu lợi ích cho giai cấp tư sản, thì khi quần chúng nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và những người cộng sản, ngày càng tích cực đi vào con đường đấu tranh cách mạng của quần chúng chống lại bọn địa chủ, những tổ chức dân tộc cách mạng kiểu Việt Nam Quốc dân Đảng, Thanh niên Cao vọng Đảng, v.v. cũng chuyển sang lập trường của chủ nghĩa dân tộc cải lương. Phong trào công nhân và nông dân càng trở nên một mối nguy cơ lớn đối với chế độ thuộc địa (nền thống trị của đế quốc và địa chủ) công nhân và nông dân càng biết vận dụng nhiều phương pháp của quần chúng để trấn áp bọn địa chủ và công chức trong bộ máy quan liêu (quan lại), thì giai cấp tư sản Đông Dương càng yêu cầu chủ nghĩa đế quốc Pháp đàn áp đẫm máu phong trào công nhân và nông dân và những người cộng sản, các tổ chức dân tộc cách mạng như Việt Nam Quốc dân Đảng càng nhanh chóng mất hết những tàn dư cuối cùng của tư tưởng cách mạng còn rơi rớt trong đầu óc họ. Vì vậy, nếu không thẳng tay lột trần trước đông đảo quần chúng mọi màu sắc của chủ nghĩa dân tộc cải lương, nhất là những màu sắc tả khuynh, nếu không trừ diệt được chủ nghĩa dân tộc cải lương thì không thể nào chuyển sang những cuộc chiến đấu có tính chất quyết định để giành lại độc lập cho Đông Dương được, cách mạng ruộng đất và phản đế không thể nào thành công được (Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản về chủ nghĩa dân tộc cải lương ở Đông Dương).
Đúng là các đồng chí của chúng ta thường cũng nêu các đảng phái dân tộc cải lương và lãnh tụ của chúng thành vấn đề đấu tranh nhưng đấy cũng là một cuộc đấu tranh hình thức, một sự gán ghép những vị ngữ có tính chất chửi rủa như “đồ phản bội”, “bán mình cho đế quốc”, v.v.. Cố nhiên những vị ngữ ấy rất xứng đáng với những nhân vật kia, nhưng không đủ sức thuyết phục ai nếu chúng ta không dẫn ra những sự kiện cụ thể để chứng minh. Đảng chưa nhận thức được sự cần thiết phải vạch trần những sự kiện nói lên sự phản bội của các đảng phái và bọn lãnh tụ ấy trước các tầng lớp quần chúng đông đảo nhất. Quần chúng chỉ nhìn thấy vai trò bỉ ổi của bọn dân tộc cải lương và tự mình rút ra những kết luận thích đáng khi Đảng có thể chứng minh cho họ hiểu rõ tại sao, bao giờ, thế nào và trong trường hợp nào bọn dân tộc cải lương đã phản bội lại lợi ích của quần chúng lao động, đầu hàng chủ nghĩa đế quốc, hợp tác với chủ nghĩa đế quốc trong công cuộc đàn áp đẫm máu. Không làm như thế thì những lời tố cáo của chúng ta chỉ là uổng công. Nhưng cuộc đấu tranh của chúng ta không chỉ dừng lại ở chỗ vạch trần những sự kiện quá khứ. Còn cần phải chỉ rõ những triển vọng phát triển của chủ nghĩa dân tộc cải lương, tố cáo sự câu kết ngày càng khăng khít của nó với chủ nghĩa đế quốc Pháp, giải thích những phương pháp đấu tranh mới chống lại những thủ đoạn mới của bọn dân tộc cải lương. Phải giải thích và phân tích tất cả những điều đó không phải một cách trừu tượng mà trên cơ sở những sự kiện thực tế, cụ thể phản ánh tình hình tập hợp lại các lực lượng giai cấp và sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp. Chỉ có như vậy mới có thể phá tan ảnh hưởng hiện nay của chủ nghĩa dân tộc cải lương trong quần chúng và ngăn cản ảnh hưởng đó khôi phục lại trong tương lai.
Chỉ một lần vào ngày 13-7-1930, công nhân Sài Gòn, dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, đã tổ chức biểu tình chống các lãnh tụ của Đảng Lập hiến và đập phá các toà báo của đảng ấy. Chúng tôi rất sung sướng được ghi lại sự kiện này bởi vì nó chứng tỏ rằng trình độ giác ngộ của giai cấp vô sản Đông Dương đã khá cao, cao đến mức có thể nhận thức được nếu không đấu tranh chống bọn dân tộc cải lương thì giai cấp vô sản không thể nào giữ được bá quyền lãnh đạo của mình trong công cuộc cách mạng sau này. Nhưng chỉ một điều đáng phàn nàn là ở đây cũng vậy, những người cộng sản không có những khẩu hiệu cụ thể. Họ đã lãnh đạo công nhân biểu tình chống bọn dân tộc cải lương, điều đó rất tốt. Nhưng như vậy chưa đủ. Cần phải làm cho những người biểu tình hiểu rõ vì sao họ phải biểu tình, thấy rõ những kẻ mà họ biểu tình phản đối thực sự là kẻ thù của họ, có như thế, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cải lương mới có tính chất tự giác và mới vượt ra khỏi giới hạn của một vài cuộc biểu tình lẻ tẻ và ngẫu nhiên. Nói một cách khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cải lương phải có tính chất quần chúng nói chung.
Một sự kiện khác chứng tỏ tính chất quá trừu tượng của cuộc đấu tranh mà Đảng tiến hành nhằm chống ảnh hưởng các đảng phái tư sản và tiểu tư sản là những truyền đơn rải ở Sài Gòn ngày 10-2-1931 nhân dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Trong truyền đơn, Xứ ủy Nam Kỳ chỉ nói: “Việt Nam Quốc dân Đảng bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản Đông Dương, cho nên công nhân và nông dân không theo họ”. Chúng ta không dừng lại ở những sai lầm về sách lược của mấy dòng chữ này nhưng chúng ta phải thấy rằng khẳng định như thế là quá trừu tượng, hoặc nếu chúng ta muốn đả phá ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc cải lương và đấu tranh bằng cách như vậy thì nhất định không có kết quả. Chỉ cần trích dẫn một câu trong bản tuyên bố của lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng là Nguyễn Thái Học viết ở nhà lao trong thời gian sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng đem lại hiệu quả hơn cả một trang đầy rẫy những câu rất kêu nhưng lại quá trừu tượng và chung chung.
Đối với giai cấp tiểu tư sản, bản Nghị quyết về “những nhiệm vụ cấp thiết của Đảng” đã nói một cách mập mờ rằng “những tầng lớp bị bóc lột nhất đã bắt đầu gia nhập phong trào cách mạng, còn các tầng lớp khác thì đang ở dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc cải lương”.
Trong Nghị quyết về những vấn đề công hội và nông hội, Hội nghị toàn thể đã coi những người dân tộc cải lương và dân tộc cách mạng như nhau, nhưng trong “Chính cương của Đảng”, thì lại có những thái độ khác nhau đối với họ. Trong các nghị quyết và thư của mình, Quốc tế Cộng sản luôn luôn nhấn mạnh rằng Đảng Cộng sản cần phải áp dụng những sách lược khác nhau đối với các đảng dân tộc cải lương và các đảng dân tộc cách mạng tiểu tư sản. Hội nghị toàn thể đã nhận thức một cách đúng đắn là “khi làn sóng cách mạng phát triển đến một giai đoạn cao hơn, khi cần giải quyết những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng, nhất là những nhiệm vụ của cách mạng ruộng đất và của chuyên chính công nông, thì các đảng dân tộc cách mạng sẽ từ lập trường cách mạng nhảy qua lập trường cải lương và hợp tác với đế quốc”. Hội nghị toàn thể nhận định có thể thành lập với các đảng dân tộc cách mạng một Mặt trận phản đế với điều kiện là Đảng Cộng sản phải giữ vững được tự do hành động, giữ vững độc lập về hệ ý thức và tổ chức, và có quyền phê bình mọi bước đi lệch lạc của các đảng.
Đối với giai cấp nông dân, Hội nghị nhận định “trong cuộc đấu tranh chống địa chủ và đế quốc, giai cấp vô sản có thể lôi kéo toàn bộ giai cấp nông dân, nhưng khi tình hình phân hoá giai cấp mở rộng và phát triển ngày càng sâu sắc ở nông thôn, khi cách mạng ruộng đất phát triển, thì phú nông ngả sang trận địa phản cách mạng”. Hội nghị kết luận rằng động lực chủ yếu của cách mạng Đông Dương là giai cấp vô sản, bần nông và trung nông. Trong thư gửi Đảng Cộng sản Đông Dương đề ngày 28-5-1931, Quốc tế Cộng sản đồng ý với sách lược đó của Đảng Cộng sản Đông Dương đồng thời khẳng định rằng động lực chủ yếu của cách mạng Đông Dương là công nhân, bần nông và trung nông (như vậy là Quốc tế Cộng sản đã quan tâm đến việc tập hợp giai cấp mới ở Đông Dương).
3. Những nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương - các nhóm cộng sản năm1929 và Hội nghị thống nhất đã nhiều lần xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương, nhưng cứ luẩn quẩn trong một mớ lý luận hỗn độn, mơ hồ. Và lần đầu tiên Hội nghị toàn thể tháng 10 mới xác định được tính chất của cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân chủ (phản đế và phản phong kiến). Cuộc cách mạng này, trong quá trình phát triển của nó, sẽ biến thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị toàn thể còn nói thêm là trong thời kỳ cách mạng vô sản hiện tại trên thế giới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, với sự giúp đỡ của các nước chuyên chính vô sản khác, Đông Dương có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Sau khi giải thích tính chất và triển vọng của cách mạng Đông Dương, vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong phong trào, Hội nghị toàn thể đã đề ra những khẩu hiệu chính của cách mạng, khẩu hiệu này nói chung là đúng, trừ khẩu hiệu chia ruộng đất (ở đây Hội nghị toàn thể khẳng định chia ruộng đất cho công nhân nông nghiệp).
4. Những nhiệm vụ chính trị trước mắt của Đảng - trước khi quyết định những nhiệm vụ chính trị trước mắt của Đảng Cộng sản, Hội nghị toàn thể đã đưa ra phê phán thật nghiêm khắc:
a) Những sai lầm của Hội nghị thống nhất;
b) Những sai lầm và nhược điểm của Đảng.
Dưới đây là những nhiệm vụ chính trị ấy:
“Căn cứ vào tình hình hiện tại ở Đông Dương, nhiệm vụ của Đảng là phát triển phong trào đấu tranh ra khắp Đông Dương, làm cho nó mở rộng và ăn sâu ở những nơi đã có, phát triển đến tận những vùng khác. Phải tập trung đấu tranh chống khủng bố trắng, chống phương pháp hợp lý hoá của bọn tư bản, chống thuế khoá và địa tô, chống chính sách “cải cách” giả dối, chống những hội đồng trọng tài giữa thợ và chủ, chống luận điệu của chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa hợp tác, v.v. hoặc chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ Liên Xô. Đảng đã bước vào thời kỳ tổ chức và lãnh đạo bãi công, biểu tình chính trị, và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đồng thời đấu tranh kiên quyết chống những khuynh hướng manh động. Khâu chính trong công tác hằng ngày của Đảng là tìm cách thu phục quần chúng đông đảo để bảo đảm cho công cuộc khởi nghĩa sau này đi đến thắng lợi.
Trách nhiệm của Đảng đối với phong trào cách mạng thật là nặng nề, nếu không tổ chức lại các cơ quan của chúng ta, không cải tiến công tác của chúng ta trong quần chúng, không đấu tranh chống những sai lầm của các đảng viên thì chẳng những chúng ta sẽ phải chạy theo sau quần chúng, mà còn không có đầy đủ lực lượng để đấu tranh chống khủng bố.
Từ mấy tháng nay, Đảng đã bắt đầu phát triển công tác quần chúng, sửa chữa những sai lầm cũ trước đây. Kết quả là sinh hoạt của Đảng đã trở nên sinh động hơn, số lượng công nhân và bần nông tăng lên, nhất là trong các cơ quan lãnh đạo. Đó là một bước tiến bộ, nhưng như thế chưa phải là hoàn toàn. Từ nay, chúng ta cần phải bônsơvích hoá Đảng để đi tới mục đích ấy, Đảng phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
5. Những nhiệm vụ nội bộ của Đảng
“a) Bỏ chính cương cũ và điều lệ cũ của Đảng Cộng sản, dựa vào kinh nghiệm của thời kỳ đã qua để tiến hành công tác thực tiễn đúng theo nghị quyết và chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
b) Bỏ tên Đảng Cộng sản Việt Nam và thay bằng tên Đảng Cộng sản Đông Dương.
c) Nghiên cứu các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và sách lược của Đảng Cộng sản trong tất cả các tổ chức, dùng những tư liệu đó làm cơ sở để cải tổ nội bộ và tiến hành bônsơvích hoá toàn Đảng.
d) Tổ chức học tập ở trong toàn Đảng kinh nghiệm công tác quần chúng, những biến cố xảy ra trong nước và trên thế giới, những nhiệm vụ của Đảng, nhằm nâng cao trình độ chính trị cho các đảng viên.
e) Cố gắng bằng mọi cách để tăng thêm thành phần công nhân trong Đảng, tăng thêm thành phần công nhân công nghiệp trong các cơ quan lãnh đạo; bằng mọi cách đem những người cộng sản xuống làm việc với nữ công nhân và nông dân (trừ các đồng chí bận công tác kỹ thuật).
f) Giáo dục chính trị cho các đảng viên theo trình độ của họ, và đấu tranh kiên quyết chống những khuynh hướng lệch lạc và những tàn dư của chủ nghĩa biệt phái.
g) Về phương diện tổ chức, phải dựa vào điều lệ mới của Đảng nhằm tổ chức một cách vững chắc các xứ ủy để lãnh đạo công tác trong mỗi xứ. Vì phải lo công tác trong toàn Đảng, Ban Chấp hành Trung ương không thể lãnh đạo trực tiếp các tỉnh ủy được [44].
h) Ở các cấp ủy cao cấp của Đảng (kể từ các thành ủy và tỉnh ủy) phải thành lập những ban công tác công vận, nông vận, binh vận, phụ vận, v.v..
i) Dù khó khăn, tìm mọi cách đưa những người cộng sản vào làm việc trong các xí nghiệp quan trọng (nhà máy, đồn điền, đường sắt, v.v.) để tổ chức công nhân.
j) Qua làn sóng đấu tranh mà tổ chức chi bộ ở các làng, củng cố các chi bộ đó và bảo đảm cho công nhân nông nghiệp và bần nông chiếm đa số trong các cấp ủy.
k) Tích cực chú trọng kết nạp công nhân vào Đảng, và đưa họ vào các ban chấp hành. Chú ý giáo dục các đảng viên phụ nữ trong các cơ quan và đừng để họ lâu [45] trong các cơ quan ấy.
l) Để Đảng không xa rời quần chúng, các cơ quan cao cấp của Đảng phải liên hệ khăng khít với các tổ chức cơ sở. Cần tăng cường các phương tiện liên lạc để các cơ quan của Đảng có thể liên lạc với nhau thường xuyên và nhanh chóng giữa tỉnh ủy với các xứ ủy, các xứ ủy với Ban Chấp hành Trung ương, các xứ ủy với nhau, Ban Chấp hành Trung ương với các đảng anh em Pháp và Trung Quốc, Ban Chấp hành Trung ương với Quốc tế Cộng sản, v.v..
m) Làm cho sinh hoạt chi bộ được sinh động hơn, phân công cho tất cả các đảng viên, xem công tác quần chúng là công tác chủ yếu và tăng cường công tác tổ chức trong quá trình đấu tranh. Thực hiện nguyên tắc bầu cử các ban chấp hành. Bỏ các thủ tục phiền phức [46] khi kết nạp đảng viên mới. Kết nạp đảng viên mới phải căn cứ trước hết vào tinh thần và ý thức giai cấp của họ".
6. Hướng về quần chúng - Hội nghị toàn thể nhận thấy cần phải gấp rút thủ tiêu chủ nghĩa bè phái, đề ra một loạt biện pháp thực tiễn nhằm thu phục quần chúng, và nhấn mạnh đến sự cần thiết phải huy động mọi tầng lớp bị bóc lột ra đấu tranh xung quanh những yêu sách kinh tế thông thường nhất của họ. Hội nghị toàn thể nhận định rằng chỉ với những yêu sách từng phần người ta mới có thể thu hút tất cả mọi tầng lớp bị bóc lột bước lên vũ đài cách mạng. Cho nên nếu đánh giá thấp tầm quan trọng của những yêu sách đó thì rõ ràng là sai lầm, nhưng nếu không gắn liền những khẩu hiệu từng phần với những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Đông Dương, thì lại sẽ sa vào một mối nguy khá lớn. Như vậy là Hội nghị toàn thể đã nhận rõ tầm quan trọng to lớn của các yêu sách từng phần, cho nên trong các nghị quyết của mình Hội nghị đã đề ra những yêu sách rất cụ thể cho công nhân, nông dân lao động, binh lính, thanh niên, và phụ nữ.
Do đó, cuộc đấu tranh để thu phục quần chúng xung quanh những yêu sách từng phần là một bộ phận hợp thành của cuộc đấu tranh nhằm chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Những nghị quyết về phong trào thanh niên, phong trào công hội, v.v. và chúng ta sẽ phân tích dưới đây có mục đích chỉ vẽ cho những người cộng sản biết phải thu phục quần chúng bằng cách như thế nào.
7. Đoàn Thanh niên Cộng sản - Hội nghị toàn thể đã nhận định một cách đúng đắn rằng Đoàn Thanh niên Cộng sản là một nguồn dự trữ lực lượng mới của Đảng, một trường học cộng sản cho thanh niên lao động và một tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của tầng lớp thanh niên bị bóc lột. Hội nghị đã nghiêm khắc phê bình khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa đánh giá thấp vai trò của thanh niên cộng sản, xem nhẹ việc tổ chức tầng lớp thanh niên cần lao vào trong hàng ngũ thanh niên cộng sản. Hội nghị đã dự kiến trước một mối nguy khác xem Đoàn Thanh niên Cộng sản như một Đảng Cộng sản thứ hai. Hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết phải biến Đoàn Thanh niên Cộng sản thành một tổ chức quần chúng thật sự, vì vậy không nên đòi hỏi ở các đoàn viên thanh niên cộng sản những điều kiện giống như đảng viên. Về vấn đề này, Hội nghị toàn thể nói: “Đảng là đội tiên phong và lãnh tụ của tất cả giai cấp vô sản và giai cấp nông dân, còn Đoàn Thanh niên Cộng sản thì không có vai trò ấy. Nó là một tổ chức đấu tranh có tính chất chính trị, một tổ chức trợ thủ của Đảng, có nhiệm vụ giáo dục quần chúng thanh niên theo con đường lêninnít. Hội nghị còn nói thêm là việc giáo dục đó chỉ có tiến hành thông qua đấu tranh giai cấp.
Hội nghị toàn thể quyết định có thể và phải dựa vào Đoàn Thanh niên Cộng sản những thanh niên công nhân, nông dân, học sinh từ 14 tuổi đến 23 tuổi, thừa nhận chương trình và điều lệ của Đoàn Thanh niên Cộng sản và cam kết tích cực tham gia phong trào cộng sản của thanh niên. Tuy vậy, Hội nghị đã căn dặn những người cộng sản một cách rõ ràng rằng phải tìm mọi cách bảo đảm cho những phần tử vô sản nắm giữ vai trò lãnh đạo và chiếm đa số trong Đoàn Thanh niên Cộng sản. Còn đối với học sinh thì trước khi kết nạp vào Đoàn, phải tiến hành điều tra thật kỹ càng.
Nhiệm vụ trung tâm của các tổ chức thanh niên cộng sản là phải tập trung lại theo quy mô toàn quốc. Về vấn đề này, Hội nghị toàn thể đã đề ra những chỉ thị rất cụ thể tiến tới chuẩn bị một đại hội toàn quốc của các tổ chức thanh niên cộng sản nhằm thành lập một Đoàn Thanh niên Cộng sản cho cả Đông Dương và bầu một Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị cũng nhắc nhở phải tích cực chú ý đến công tác tổ chức thanh niên tại các xí nghiệp, khuyên bảo thanh niên cộng sản phải tăng thêm các tổ chức quần chúng của mình, đưa thanh niên vào các đội tự vệ, thành lập các ban thanh niên trong ban lãnh đạo các tổ chức cách mạng. Đảng đã chỉ thị cho mỗi chi bộ phải tiến tới thành lập càng nhanh càng tốt một chi đoàn thanh niên cộng sản, căn dặn các báo chí cộng sản dành riêng những trang đặc biệt để nói về phong trào thanh niên cộng sản. Hội nghị toàn thể đã đặt ra cho các tổ chức thanh niên cộng sản sự cần thiết phải gấp rút tổ chức học tập, phổ biến rộng rãi trong quảng đại quần chúng thanh niên cần lao các nghị quyết chính trị của Đảng nhất là bức thư ngỏ đầu tiên đề ngày 10-4-1930 của Quốc tế Cộng sản gửi cho thanh niên cộng sản Đông Dương.
8. Vấn đề công hội - Sau khi phân tích tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của giai cấp công nhân, Hội nghị toàn thể đã tổng kết phong trào công nhân từ hồi thống nhất Đảng. Lúc đó Hội nghị đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng và vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong phong trào cách mạng nói chung. Hội nghị phê phán rất nghiêm khắc những sai lầm sau đây của những người cộng sản trong phong trào công hội: đòi hỏi những hội viên công hội những tiêu chuẩn giống như tiêu chuẩn những người cộng sản, ban chấp hành công hội thường là hình ảnh sao chép của các ban chấp hành Đảng, đánh giá thấp vai trò quyết định của các xí nghiệp lớn, không tổ chức các ban công tác phụ nữ và thanh niên trong các công hội, không thành lập các ủy ban xí nghiệp để thu hút tất cả công nhân đã có tổ chức và chưa có tổ chức, xu hướng kinh tế chủ nghĩa. Hội nghị toàn thể đặc biệt nhấn mạnh đến mối nguy cơ xem các công hội đỏ như những tổ chức tương tế về phương diện kinh tế, còn các nhiệm vụ chính trị thì lại dành riêng cho Đảng Cộng sản. Sau khi giải thích cho những người cộng sản thấy rõ họ phải gắn liền những vấn đề kinh tế với chính trị như thế nào, Hội nghị toàn thể đã kết luận là các công hội đỏ phải tìm cách biến các cuộc đấu tranh kinh tế thành những cuộc đấu tranh chính trị, nhưng trong lúc đấu tranh chính trị, họ không hề được quên bảo vệ lợi ích kinh tế hằng ngày của giai cấp vô sản.
Đây là lần đầu tiên Đảng ta đã xác định một cách lêninnít vai trò của các công hội, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và công hội đỏ.
Hội nghị toàn thể đã đề ra nhiều hình thức tuyên truyền cực kỳ phong phú để giáo dục giai cấp vô sản về mặt chính trị, để chỉ rõ cho họ thấy những ai là kẻ thù giai cấp của họ. Đặc biệt, Hội nghị căn dặn những người cộng sản phải tiến hành đấu tranh kiên quyết chống các khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa còn rơi rớt ở các đảng viên cũng như ở trong công nhân, nâng cao tinh thần quốc tế vô sản cho họ, làm cho họ hiểu rõ Liên Xô là Tổ quốc duy nhất của mình. Hội nghị thấy cần phải thành lập trong mỗi nhà máy một tờ báo xí nghiệp. Tuy nhiên, trong khi đặt vấn đề đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân khỏi ảnh hưởng của bọn dân tộc cải lương và dân tộc cách mạng, Hội nghị đã phạm phải sai lầm là nhét hai loại đảng phái ấy vào cùng một bị, do đó không biết có thái độ khác nhau đối với các đảng phái cải lương phản động và các đảng tiểu tư sản còn đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Nguyên tắc tổ chức công hội trên cơ sở xí nghiệp (chứ không phải trên cơ sở nghề nghiệp) đã được biểu quyết, vì Hội nghị toàn thể nhận thấy cần thiết phải biến mỗi xí nghiệp thành một thành trì của phong trào cách mạng. Để tăng cường mối liên hệ giữa công nhân các vùng và các ngành công nghiệp khác nhau, Hội nghị đã chủ trương thực hiện hai hình thức tổ chức kết hợp với nhau: a) tổ chức ngang (địa phương) tập hợp tất cả những công hội ở cùng một vùng thành liên hiệp công hội địa phương; b) tổ chức dọc, tập hợp tất cả những công hội trong từng ngành công nghiệp.
Hội nghị toàn thể chủ trương thành lập các ban công tác thanh niên và phụ nữ trong các cơ quan lãnh đạo. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh đến việc cần phải hoạt động trong đám những người thất nghiệp và lôi cuốn họ vào cuộc đấu tranh.
Hội nghị toàn thể đặc biệt nêu bật sự cần thiết phải thành lập các ủy ban xí nghiệp và những tổ chức quần chúng phụ trợ khác để có thể thu hút được hết thảy công nhân vào tổ chức.
Ban Chấp hành Trung ương đã vạch ra một cách rất cụ thể các hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản, các phương thức chuẩn bị và lãnh đạo từng phong trào và phân tích nguyên nhân thắng lợi hoặc thất bại của từng cuộc đấu tranh.
Sau cùng, Hội nghị toàn thể đã đề ra những yêu sách từng phần cho giai cấp công nhân nhằm giúp các đồng chí ở cơ sở từ đấy có thể đưa ra những khẩu hiệu cụ thể, chính xác và nhất là dễ hiểu đối với quần chúng.
9. Vấn đề nông dân - Hội nghị toàn thể đã phân tích những hình thức bóc lột đối với giai cấp nông dân Đông Dương và nhận định tình hình phân hoá giai cấp ở nông thôn. Ở đây, chúng tôi nhận thấy là Hội nghị toàn thể đã hoàn toàn không đề cập đến vấn đề nông dân bị tư bản thương nghiệp nông thôn bóc lột.
Trước khi đề ra nhiệm vụ của Đảng Cộng sản trong phong trào nông dân, Hội nghị toàn thể đã phê phán những sai lầm và thiếu sót phạm phải trong thời gian công tác trước đấy (chủ nghĩa biệt phái, không vận động trong thanh niên và phụ nữ, đấu tranh quá yếu chống các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa, v.v.).
Hội nghị toàn thể đã nhắc nhở phải huy động nông dân lao động đấu tranh nhất là cho những yêu sách kinh tế và chính trị từng phần, nhưng không được tách rời với các nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Đông Dương. Hội nghị đã đề ra yêu sách từng phần cho nông dân lao động cũng như cho công nhân nông nghiệp. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ phải phổ biến những khẩu hiệu ruộng đất (tịch thu ruộng đất của địa chủ bản xứ và của bọn đế quốc đem chia cho bần nông và trung nông). Nhưng về vấn đề này, Hội nghị đã không nghĩ đến việc cấp ruộng đất cho công nhân nông nghiệp.
Hội nghị toàn thể đã nhấn mạnh rằng nhất thiết giai cấp vô sản phải nắm bá quyền lãnh đạo phong trào nông dân, rằng các nông hội phải có nhiệm vụ bức thiết là đấu tranh chống các hội đồng cải cách, chống các đảng phái dân tộc cải lương và dân tộc cách mạng.
Hội nghị toàn thể thấy cần phải làm cho công hội và nông hội liên hệ chặt chẽ với nhau, và thông qua các tiểu tổ cộng sản mà đảm bảo sự lãnh đạo cách mạng đối với nông hội. Hội nghị căn dặn phải đưa bần nông càng nhiều càng tốt vào các cơ quan lãnh đạo nông hội, nhưng Hội nghị chưa nhìn thấy sự cần thiết phải bảo đảm cho giai cấp vô sản nông nghiệp nắm giữ ưu thế lãnh đạo trong các tổ chức.
Về phương diện tổ chức nông dân, Hội nghị toàn thể đã phạm hai sai lầm chủ yếu:
a) Hội nghị đã vô tình mở rộng cửa các nông hội cách mạng cho phú nông mà không nêu rõ trong điều lệ là những tổ chức đó chỉ được tập hợp nông dân lao động mà thôi.
b) Hội nghị đã quyết định tập trung các nông hội lại thành một hệ thống toàn quốc. Quốc tế Cộng sản đã viết thư cho toàn Đảng Cộng sản nhằm sửa chữa sai lầm đó của Hội nghị toàn thể: “Tuy phải tích cực sử dụng nông hội làm một trong những hình thức quan trọng nhất tổ chức nông dân đấu tranh, nhưng không nên thành lập một cơ quan trung ương nông hội cho toàn bộ xứ Đông Dương. Việc tập trung các nông hội thành một hệ thống toàn quốc là không hợp lý. Cơ quan trung ương nông hội đã ít có khả năng tập hợp quần chúng nông dân, lại có thể bị những phần tử dân tộc cải lương lợi dụng để đối lập với giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản”.
10. Công tác binh vận - Hội nghị toàn thể nhận định rằng nếu không có binh lính tham gia phong trào cách mạng thì cách mạng Đông Dương không thể đi đến thắng lợi. Hội nghị đã phê phán những xu hướng nguy hiểm như sau:
a) Một là, đánh giá quá cao công tác vận động binh lính và xem nhẹ công tác trong các tầng lớp quần chúng lao động đông đảo.
b) Hai là, không nhận thấy tầm quan trọng của công tác binh vận mà chỉ nhìn thấy công tác vận động quần chúng là trọng yếu thôi.
Muốn lôi kéo binh lính tham gia vào đấu tranh cách mạng, nhất là muốn họ ngả sang phe của công nhân và nông dân trong thời cơ quyết định, thì công tác vận động binh lính phải được tiến hành một cách tự giác, Đảng phải luôn luôn bênh vực những yêu sách hằng ngày của họ.
Hội nghị toàn thể đã đề ra sách lược vận động binh lính như sau:
“Ở Đông Dương, quân đội hoàn toàn nằm trong tay bọn đế quốc. Trong quân đội, có hai bộ phận: bộ phận đông đảo nhất bao gồm binh lính bản xứ, bộ phận kia gồm những đội quân chiếm đóng từ bên Pháp hoặc các thuộc địa khác đến. Trong công tác binh vận, sách lược của Đảng là phải sử dụng khẩu hiệu quân đội quốc gia [47] (nghĩa là độc lập với quân đội đế quốc) nhằm biến binh lính bản xứ thành một quân đội cách mạng; mặt khác, phải thực hiện chính sách thất bại chủ nghĩa (nghĩa là góp phần làm cho chủ nghĩa đế quốc thất bại, quân đội tan rã), làm cho hàng ngũ quân đội phân hoá đi đến vô tổ chức, tan rã. Gặp trường hợp chiến tranh đế quốc thì cần phải định nghĩa nó cho thật rõ để xác định cho đúng thái độ của chúng ta.
a) Khi chiến tranh xảy ra giữa hai nước đế quốc với nhau và binh lính bị cưỡng bách ra trận, thì nhiệm vụ của mỗi người lính là góp phần làm cho chính phủ đế quốc áp bức của họ thất bại: từ chối không ra trận, không tuân theo mệnh lệnh, phá hoại và tổ chức quay về hàng loạt nhằm làm cho quân đội tan rã, trở nên vô tổ chức. Nếu lúc đó giai cấp vô sản ở chính quốc cũng nổi dậy làm cách mạng lật đổ giai cấp tư bản, thì cần phải giúp đỡ giai cấp vô sản ở chính quốc trong cuộc đấu tranh cách mạng của họ.
b) Nếu một hay nhiều nước đế quốc gây chiến với Liên Xô, thì nhiệm vụ của binh lính là đứng về phía Liên Xô và quay súng bắn lại bọn đế quốc, vì Liên Xô là Tổ quốc của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
c) Nếu bọn đế quốc đưa binh lính đi đàn áp phong trào cách mạng ở các thuộc địa khác hoặc ở ngay trong nước mình, binh lính phải đồng tình với quần chúng công nông, quay súng bắn lại bọn đế quốc và ủng hộ phong trào cách mạng” (Nghị quyết của Hội nghị toàn thể về công tác binh vận).
Chúng ta phải nhấn mạnh rằng trong trường hợp thứ nhất, trường hợp xảy ra chiến tranh giữa hai nước đế quốc, Hội nghị không vạch ra một cách rõ rệt là phải tìm cách làm cho quân đội tan rã, chính phủ đế quốc áp bức thất bại, nhưng các khẩu hiệu “không ra trận, không tuân mệnh lệnh sĩ quan, phá hoại và tổ chức quay về hàng loạt...” lại có ý nghĩa đối với binh lính (nhất là trong thời chiến) là những lời kêu gọi đứng dậy, gấp rút tiến hành khởi nghĩa. Liệu chúng ta có thể hy sinh một vài nhóm binh lính bản xứ tiên tiến và cách mạng bằng cách phát động những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ mà không chú ý đến:
a) Tinh thần chiến đấu và những khẩu hiệu đấu tranh của những người lao động ở nước đế quốc có điều động binh lính bản xứ tới;
b) Tinh thần, trình độ chiến đấu và tổ chức của binh lính trong quân đội nước đế quốc nói trên (kinh nghiệm của cuộc Chiến tranh thế giới 1914 - 1918 đã chứng minh rằng binh lính bản xứ luôn luôn bị phân tán thành từng nhóm nhỏ lẻ tẻ [48] và chỉ là thiểu số trong quân đội đế quốc;
c) Trình độ tổ chức của Đảng Cộng sản ở nước đế quốc và ảnh hưởng của nó trong quần chúng. Vì vậy, khi đưa ra các khẩu hiệu: “không ra trận, không tuân mệnh lệnh sĩ quan", v.v. đáng lẽ Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương phải nói cụ thể là lúc nào và trong điều kiện nào, những khẩu hiệu như thế là những khẩu hiệu động, chứ không phải là những câu nói rỗng tuếch.
Hội nghị lưu ý những người cộng sản phải tổ chức những chi bộ cộng sản trong quân đội (Hội nghị không thấy cần phải tổ chức những chi đoàn thanh niên cộng sản trong quân đội), thành lập nhiều tổ chức quần chúng của binh lính (hội binh sĩ tại ngũ, hội cựu binh, v.v.), đẩy mạnh tuyên truyền cộng sản chủ nghĩa trong binh lính, liên kết chặt chẽ đấu tranh của binh lính với các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân, bảo vệ và phổ biến những yêu sách hằng ngày của binh lính chẳng những trong quân đội, mà cả trong các tầng lớp bị bóc lột, nhằm vận dụng một tình đoàn kết đấu tranh giữa công nhân, nông dân và binh sĩ.
Hội nghị toàn thể đã đề ra những yêu sách từng phần cho binh lính, trong đó có việc đòi hồi hương những binh lính bản xứ bị đưa sang Pháp và các thuộc địa khác, và đòi giải tán quân đội chiếm đóng.
Cần nói thêm là sau Hội nghị toàn thể, Ban Thường vụ [49] đã lưu ý tất cả các ban tỉnh ủy (thông tri ngày mồng 3-1-1931) tiến hành ngay công tác binh vận ở những nơi chưa làm, và ở những nơi đã làm rồi thì tìm cách củng cố lại.
11. Liên đoàn chống đế quốc [50] - Hội nghị toàn thể đã phê phán những quan điểm cơ hội chủ nghĩa của một số đồng chí có tư tưởng biệt phái: các đồng chí này đã nghĩ một cách sai lầm rằng khi kết nạp hội viên vào Liên đoàn người ta cũng phải theo những điều kiện giống như kết nạp đảng viên vào Đảng Cộng sản, nghĩa là trên cơ sở từng người một. Hội nghị nhận thấy cần phải tập trung và liên kết tất cả mọi lực lượng phản đế lại bằng cách đưa vào Liên đoàn toàn bộ tập thể của tất cả mọi tổ chức quần chúng cách mạng của công nhân, nông dân, học sinh, binh lính, phụ nữ, các đảng cách mạng tiểu tư sản, v.v.. Như vậy là Hội nghị đã chú ý đến việc kết nạp tập thể từng tổ chức toàn vẹn vào Liên đoàn phản đế, nhưng như thế không có nghĩa là Hội nghị đã từ chối kết nạp những cá nhân riêng lẻ, những người này, theo ý Ban Chấp hành Trung ương không bao giờ được chiếm đa số ở trong Liên đoàn. Hội nghị toàn thể đặc biệt nhấn mạnh đến sự cần thiết phải bảo đảm cho thành phần lao động chiếm đa số trong Mặt trận và cho giai cấp vô sản chiếm giữ vai trò lãnh đạo. Hội nghị đã xác định nhiệm vụ của Liên đoàn là phải đặc biệt đấu tranh chống những hình thức áp bức đế quốc chủ nghĩa chống khủng bố, chống chiến tranh đế quốc, chống bè lũ thoả hiệp với chủ nghĩa đế quốc. Liên đoàn phải có tính chất quốc tế, vì vậy nó phải đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thế giới đồng thời ủng hộ Liên Xô và bảo vệ phong trào cách mạng ở tất cả các nước.
12. Cứu tế đỏ - Đảng đã phê phán những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa xem hội cứu tế đỏ như một tổ chức tương tế chỉ gồm những người “hảo tâm” và trước hết, những “nhà giàu có”. Hội nghị giải thích rằng Quốc tế cứu tế đỏ phải là một tổ chức quần chúng đấu tranh đặc biệt chống khủng bố trắng, cứu trợ những gia đình cách mạng nạn nhân của ách đàn áp đế quốc. Hội nghị căn dặn không nên đóng cửa Quốc tế cứu tế đỏ đối với những phần tử phản đế không phải là lao động, nhưng đồng thời cũng cần quy định rất thấp số tiền nhập hội và nguyệt phí để cho các tầng lớp quần chúng lao động đông đảo có thể gia nhập tổ chức. Hội nghị toàn thể đã quy định những phương pháp tổ chức, đấu tranh của tổ chức Quốc tế cứu tế đỏ, những khẩu hiệu mà nó phải đưa ra để huy động quần chúng xuống đường đấu tranh.
Đặc biệt Hội nghị toàn thể đã chỉ thị cho tất cả những người cộng sản phải gia nhập Quốc tế cứu tế đỏ và chỉ định các cán bộ phụ trách tổ chức đó. Hội nghị cũng nêu lên sự cần thiết cấp bách phải thống nhất các tổ chức lẻ tẻ của Quốc tế cứu tế đỏ lại thành một tổ chức mạnh mẽ trên quy mô toàn quốc.....[51]
....[52] những hội sinh viên, v.v. mà còn phải thành lập những hội riêng cho phụ nữ lao động, chủ yếu nhằm thu hút những chị em chưa gia nhập các tổ chức quần chúng khác. Hội nghị đề ra nhiệm vụ giáo dục chính trị cho phụ nữ, đào tạo cán bộ lãnh đạo xuất thân từ phụ nữ lao động, Hội nghị cũng quyết định dành những đợt thường xuyên trên báo chí cộng sản để bàn về những vấn đề phụ nữ.
Hội nghị đã nêu ra một loạt yêu sách từng phần cho phụ nữ lao động, và đề nghị triệu tập càng nhiều càng tốt các hội nghị đại biểu của phụ nữ.
14. Đội tự vệ - Các đội tự vệ đã đóng một vai trò to lớn trong phong trào cách mạng ở Đông Dương nói chung và trong phong trào Xôviết nói riêng. Trong phiên họp toàn thể lần thứ nhất, Hội nghị đã đặt ra rất mạnh vấn đề thành lập các đội tự vệ và kết nạp vào đấy những công nhân, nông dân (kể cả thanh niên) tích cực nhất và can đảm nhất. Ngay sau khi Hội nghị kết thúc, Ban Thường vụ đã chỉ thị nhiều lần cho tất cả những người cộng sản phải tuyên truyền rộng rãi tầm quan trọng và sự cần thiết cấp bách phải thành lập các đội ấy. Trong vấn đề thành lập các đội tự vệ này Đảng đã phải đấu tranh chống ba khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa: a) khuynh hướng xem các đội tự vệ là những tổ chức tạm thời và cần giải tán sau mỗi lần bãi công hoặc biểu tình kết thúc; b) khuynh hướng đòi Đảng cung cấp vũ khí cho các đội đó đầy đủ như đối với các đội xích vệ hoặc hồng quân; c) khuynh hướng cho rằng các đội tự vệ không được dùng vũ khí, xem mọi cuộc xung đột vũ trang giữa các đội ấy với cảnh sát như là manh động.
Đảng cho rằng đội tự vệ là những tổ chức thường trực, với sự giúp đỡ của Đảng, các đội này phải cố gắng bằng đủ mọi cách, tự sắm lấy vũ khí, nhưng nếu không sắm được đầy đủ, những đội đó vẫn có thể tồn tại. Đảng cũng nhấn mạnh là các đội tự vệ cần học tập quân sự để bảo vệ công nhân và nông dân trong các cuộc bãi công và biểu tình.
Chỉ thị của Đảng về việc thành lập các đội tự vệ đã đem lại kết quả, bởi vì sau Hội nghị toàn thể lần thứ nhất, chúng ta thấy các đội tự vệ như vậy mọc ra rất nhiều và các cuộc đấu tranh của quần chúng có tính chất tổ chức hơn.
15. Chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc - Hội nghị đã ra những chỉ thị cụ thể về việc chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của phong trào cách mạng. Hội nghị nói thêm là ngày giờ họp Đại hội sẽ được quy định sau khi Đảng cải tổ xong bộ máy nội bộ và cải tiến công tác quần chúng trên cơ sở những nghị quyết của Hội nghị toàn thể lần thứ nhất.
16. Phương pháp tổ chức - Hội nghị thống nhất không quy định các phương pháp tổ chức. Chính Hội nghị toàn thể đã vạch ra lần đầu tiên, một cách rất rõ ràng điều lệ và hình thức tổ chức cho Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản, công hội đỏ, nông hội, hội binh sĩ, hội phụ nữ, hội học sinh, liên đoàn chống đế quốc và phân bộ Quốc tế cứu tế đỏ Đông Dương.
Căn cứ theo Điều lệ của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị toàn thể đã quy định, trong Điều lệ Đảng, những điều kiện gia nhập Đảng, quan hệ giữa các cơ quan, những chức năng của mỗi cơ quan ấy; Hội nghị nhận thấy cần thiết phải có một kỷ luật sắt bônsơvích trong khuôn khổ dân chủ nội bộ của Đảng; Hội nghị đã cụ thể hoá vai trò của các tổ chức cộng sản, quy định quan hệ giữa Đảng và Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Về điều kiện gia nhập Đảng, Hội nghị quy định rõ là “tất cả mọi người thừa nhận Cương lĩnh và Điều lệ của Quốc tế Cộng sản và của Đảng Cộng sản, tham gia hoạt động trong một tổ chức của Đảng, phục tùng mọi nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và đóng đảng phí đều đặn đều có thể được quan niệm là đảng viên”.
Đối với công nhân, Đảng tạo điều kiện cho họ dễ dàng gia nhập Đảng và chỉ yêu cầu họ có một đảng viên cũ giới thiệu; đối với những thành phần khác (nông dân, thợ thủ công, trí thức, tiểu tư sản, v.v.), Đảng yêu cầu phải có hai đảng viên cũ giới thiệu. Những người xin gia nhập Đảng sau khi chi bộ thông qua, phải được cấp ủy khu vực hoặc tổng chuẩn y. Đảng viên các đảng khác muốn xin gia nhập Đảng Cộng sản, phải được ba đảng viên cũ giới thiệu. Nếu họ là đảng viên thường của các đảng kia thì phải do tỉnh ủy Đảng Cộng sản chuẩn y; nếu là cán bộ có trách nhiệm, thì phải do Ban Chấp hành Trung ương chuẩn y mới được kết nạp vào Đảng.
Chú thích:
44. Điểm này quy định không rõ rệt. Hội nghị toàn thể lần thứ nhất muốn nói rằng, Ban Chấp hành Trung ương không thể liên hệ trực tiếp với các tỉnh ủy như trước Hội nghị để góp ý kiến và ra chỉ thị khi cần. Các ban tỉnh ủy phải trực thuộc thẳng các xứ ủy. (H.T.C).
45. Hội nghị toàn thể muốn nói rằng không nên để phụ nữ đảm nhiệm lâu một công việc nào đó mà phải dần dần giao cho họ những chức vụ lãnh đạo cao hơn và trách nhiệm lớn hơn (H.T.C).
46. Tuyên thệ là một trong những thủ tục ấy (H.T.C).
47. Danh từ “quân đội quốc gia” có thể làm cho nhiều người hiểu nhầm. Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (1932) đã đưa ra những khẩu hiệu “vũ trang cho toàn thể nhân dân lao động”, “thành lập một quân đội cách mạng công nông”. Những khẩu hiệu đó đúng và rõ ràng hơn (H.T.C).
48. Năm 1917, tại miền Vốtgiơ Tiểu đoàn lính Đông Dương thứ 7 đã bị phân tán (hay nói đúng hơn là bị cắt ra từng khúc như một miếng dồi) như sau: một đại đội được điều động đến Trung đoàn bộ binh thứ 3, cứ mỗi tiểu đội thì về một đại đội của trung đoàn; một đại đội được thuyên chuyển đến tiểu đoàn thứ nhất của trung đoàn này; một đại đội được thuyên chuyển về Trung đoàn bộ binh thứ 67; đại đội liên thanh thì một trung đội sáp nhập vào Trung đoàn thứ 54, một trung đội về Trung đoàn thứ 67 (báo France militaire, số ra ngày 6-3-1933) (H.T.C).
49. Bản tiếng Pháp viết bureau politique, thuật ngữ này các văn kiện hồi đó thường viết chữ Việt là Ban Thường vụ Trung ương (B.T).
50. Dịch đúng theo chữ Pháp của tác giả viết và thống nhất với tổ chức quốc tế này, phải là Liên đoàn chống đế quốc (Ligue anti-impérialiste). Sau này, có sách báo viết tên tổ chức là Mặt trận phản đế, Phản đế đồng minh. Nguyên văn chữ Pháp là ligue, không phải làfront hay alliance (B.T).
51, 52. Bản tiếng Pháp thiếu một trang (B.T).
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện