[Việt Nam] Ông Đồ Làng Nhị Khê
Chương 1 : Quán nước đầu làng
Người đăng: Lịch sử Việt Nam
Ngày đăng: 19:46 16-09-2018
.
Một cây đa già có đến một trăm năm, cành lá xum xuê, tỏa bóng xuống một khoảnh đất rộng rãi phẳng phiu ở ngay đầu làng Nhị Khê. Nơi đây mát mẻ suốt ngày kể cả những buổi trưa hè oi bức nên từ sáng sớm đến lúc sẩm tối không mấy lúc vắng người.
Từ những khách lạ phương xa đến các bà trong làng đi chợ ở những xã kế cận, ai cũng lấy nơi đây làm chỗ nghỉ chân. Không tiền, bỏ nón ra, phe phẩy mấy cái cũng xong. Dư dả thì ghé vào quán nước dựng ngay dưới cây đa, uống bát nước chè tươi, ăn cái bánh, hỏi thăm đường, hoặc nói vài ba câu chuyện.
Quán thật khang trang mặc dầu mái chỉ lợp bằng tranh và bàn ghế đóng bằng tre nứa. Bà hàng đã đứng tuổi, nhai trầu, môi cắn chỉ, lúc nào cũng tươi cười chào đón khách dù lạ hay quen.
Một ông khách ngả nón bước vào, ngồi xuống ghế, tay phe phẩy chiếc quạt lớn, nan bằng tre cật.
- Hôm nay quán chắc đắt khách lắm hả, bà Nhiêu?
Bà hàng vói tay ngửa chiếc bát đàng trước mặt ông khách, nghiêng mình múc gáo nước chè tươi trong chiếc nồi đất ủ thật kỹ ở mé sau lưng, rót vào bát cho khách.
- Vâng, nhờ trời cũng khá. Nhưng chẳng làm sao bằng những ngày này năm xưa đó, thưa ông Khóa.\
Ông Khóa lẩm nhẩm tính:
- Phải rồi, kể cả năm nay là mười năm, không thấy các quan về tế đền thờ Đức Khai Quốc [1].
- Từ năm Hợi phải không, ông Khóa?
- Phải, từ năm Đinh Hợi [2] đến năm nay là năm Đinh Dậu [3], đúng mười năm, bà Nhiêu nhớ cũng giỏi đấy.
- Nhớ chứ sao không! Tôi nghĩ tổ tiên là tổ tiên chung. Chả nói đâu xa, ngay như ở làng ta, đâu có phải chỉ có một mình ông Đồ Long Vũ mới là con cháu của Đức Khai Quốc.
Ông Khóa nâng bát nước lên uống từng hớp nhỏ rồi cười ha hả khen:
- Chí lý! Bà Nhiêu nói phải. Chẳng những cả làng Nhị Khê ta là con cháu Ngài, mà cả nước đều phải nhớ ơn Ngài nữa. Ấy thế mà…
Tiếng vó ngựa từ đàng xa phi tới cắt ngang câu chuyện.
Ông Khóa vừa quay đầu ra đã thấy một con ngựa chiến, toàn thân lông đen bóng, đứng dừng thẳng tắp ngay giữa ngả ba đường. Một thiếu niên tuổi chừng mười lăm, mười sáu, mặt còn non choẹt nhưng thân hình đã vạm vỡ, từ trên lưng ngựa nhảy tót xuống nhẹ như chiếc lá.
Buột miệng, ông Khóa khen với bà hàng:
- Cậu bé này cũng là một tay đáo để đây!
Tuy chỉ mặc bộ đồ võ sinh tầm thường bằng vải nâu tiệp với nước da sạm nắng, và đeo trên vai một chiếc tay nải quê mùa, Huy, tên chàng trẻ tuổi, vẫn có phong thái của một vị công tử con quan, nhất là ở ngang thắt lưng cậu có giắt một thanh gươm, chuôi và vỏ bằng đồng đen có chạm trổ.
Với những cử chỉ thật âu yếm, thiếu niên quàng tay ôm cổ con ngựa, vuốt lưng, vuốt bờm, trước khi vỗ vỗ vào hông nó. Hiểu ý, con vật từ tốn bước tới đám cỏ tươi non gần lũy tre xanh kiếm một bữa quà thanh đạm miễm phí.
Chàng trẻ tuổi ung dung bước vào trong quán nước.
Khuôn mặt vuông với vừng trán rộng, cặp mắt sáng quắc cùng với đôi môi dầy và tươi dễ khiến cho người ta thoạt trông thấy đã có cảm tình ngay.
Chàng lễ độ nghiêng đầu chào những người có mặt trong quán trước khi ngồi xuống.
Chủ quán vừa rót nước mời khách vừa thăm hỏi thay lời chào:
- Chắc cậu cả từ Kẻ Chợ mới tới?
- Vâng. Đây đã phải là làng Nhị Khê chưa, thưa bà?
- Đây là làng Nhị Khê rồi. Cậu định…
Không để bà hàng tò mò hỏi thêm, cậu bưng bát nước chè bốc khói, rời chiếc chõng tre ra đứng ngoài quán hóng gió cho khô chiếc áo võ sinh đã ướt đẫm hết lưng.
Một lát sau, đặt chiếc bát vào chỗ cũ, chàng khen:
- Chè tươi ngon quá, xin bà cho bát nữa.
- Vâng.
Bà hàng quảng cáo thêm:
- Hàng tôi có xôi đậu mới thổi xong. Có chuối tiêu trứng cuốc, ngon lắm, cậu xơi…
- Dạ thôi.
- Có bánh, bánh gai, bánh mật…
Chàng trẻ tuổi mỉm cười, lắc đầu. Không nản lòng, bà hàng mời gặng:
- Có cả bánh dầy Quán Gánh nữa. Bánh dầy Quán Gánh là ngon nhất hạng đấy, cậu ơi! Cậu sơi thử vài tấm nhé.
- Vâng. Xin bà một cặp.
Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm trở về cùng với hương vị tuyệt vời của món quà đâu cũng có nhưng đâu cũng chẳng ngon bằng ở miền Thượng Phúc này.
Bột nhuyễn trắng tinh, nhân đậu mịn màng điểm thêm vị cà cuống vừa thơm, vừa cay khiến cho khách khó tính đến đâu cũng thấy ngọt giọng, đã ăn một lại muốn ăn hai.
Ăn chưa hết cái bánh, mặt chàng bỗng sa sầm xuống. Hương vị thơm ngon gợi chàng nhớ về quá khứ, nhớ mẹ, nhớ em, nhớ quê nhà.
Những năm trước đây, cha mẹ chàng đến Nhị Khê thăm bác Đồ, khi về muốn mang quà gì thì mang, nhưng không thể nào quên được những tấm bánh dầy Quán Gánh gói trong những tầu lá chuối xanh. Hai anh em chàng được ăn bằng thích…
Những ngày vui ấy có lẽ không còn nữa. Nay mai đây, mẹ chàng, em chàng sẽ phải bỏ làng mà đi. Ngay bây giờ, mẹ và em chàng đã rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn rồi cũng chưa biết chừng! Cha chàng liệu có thoát khỏi cái chết ở nơi biên thùy xa thẳm hay không?
Còn chàng, biết nương náu nơi đây có được yên ổn cùng chăng? Không khéo còn liên lụy đến gia đình bác Đồ nữa thì khốn!
Trớ trêu thay, bác Đồ tài kiêm văn võ của chàng lại chính là hậu duệ của vị khai quốc nguyên huân Tế Văn Hầu Nguyễn Trãi, người đã bị chu di cả ba họ mặc dầu đã sớm biết thực hành câu “Công thành, thân thoái”!
Không thể để tấn thảm kịch ngót một trăm năm xưa tái diễn!
Bà quán cũng như ông Khóa đều nhận thấy nét ủ dột lạ kỳ của người khách lạ.
Bánh ngon là thế mà ăn mãi không hết. Bà hàng không dám mời thêm.
Khách còn đang uống thêm hớp nước thì cả chủ lẫn khách bỗng giật mình nghe có tiếng la của nhiều người cùng cất lên một lúc.
Nhìn ra thì thấy một đám đông con trai cao lớn lộc ngộc đang châu đầu vào một chỗ và reo hò khoái trá.
Ông Khóa lắc đầu mắng yêu thằng con trai vừa chạy tới:
- Chúng bay đứa nào đầu cũng to bằng cái rành [4] mà còn ham đánh đinh đánh đáo!
Người con khoe:
- Vám đáo này lạ lắm, thầy ơi! Bốn anh thẩy mỗi anh một đồng tiền. Không lọt được vào lỗ, bốn đồng tiền chia nhau nằm trấn quanh miệng lỗ. Các anh ấy đố ai thẩy trúng lỗ mà không được đụng chạm đến bốn đồng kia. Khó quá! Tiếc thay không có cậu Út ở đây!
Ông Khóa bào chữa cho tụi trẻ với những người chung quanh khi con trai đi khỏi:
- Mắng các cậu ấy thì mắng, chứ trò chơi ấy xét ra cũng vô hại, nếu không nói là hữu ích. Là vì nó luyện cho người chơi được tinh mắt, khéo tay, chẳng khác chi người luyện võ tập ném ám khí đó, các cụ ạ.
Ông nói đúng. Đánh đáo, người ta thường chỉ đứng cách xa lỗ đáo chừng một trượng. Nơi đây, vạch đứng cách xa đến bốn trượng, mắt phải tinh tường lắm mới trông thấy miệng lỗ khoét vừa vặn với đồng tiền. Và phải là tay có bản lĩnh cao mới hòng thẩy trúng. Đó là chưa nói đến bốn đồng tiền bao vây bốn phía!
Tính trẻ con bỗng nổi lên, cậu trai thấy ngứa ngáy muốn trổ tài cho thiên hạ sáng mắt. Nhưng kịp nghĩ lại thân phận mình, cậu đành dằn lòng bỏ qua.
Trả tiền quà xong, chàng huýt gió kêu ngựa lại, mắt vẫn không rời đám đông đang tiếc hùi hụi không có cậu Út ở đây để trổ tài.
Trước khi thót lên yên, chàng mỉm cười đứng ngó mấy cậu cao lớn lộc ngộc thẩy đồng nào cũng xa miệng lỗ đến cả thước.
Mấy chú bé lí lắc sấn đến gần chàng thiếu niên. Chúng ướm hỏi, đứa tung, đứa hứng, như khiêu khích:
- Cậu cả thẩy chơi thử một phát không?
- Ồ, con người sang trọng như cậu cả đâu có biết đánh đáo mày?
- Ừ, không biết chơi thì thôi! Nhưng tao nghĩ, con trai mà không biết đánh đáo thì hơi xoàng!
Chúng ngạc nhiên khi thấy người con trai có vẻ sang trọng mỉm cười đáp ngon lành:
- Biết chứ! Chẳng những biết mà còn chơi hay nữa là khác!
Và chúng reo lên gọi các anh lớn:
- Các anh ơi! Cậu cả ở đường xa cũng muốn trổ tài nữa đây này!
__
1. Nguyễn Trãi có công khai quốc được phong là Tế Văn Hầu. Ông bị tội oan. Sau vua Lê Thánh Tôn giải oan cho ông và truy tặng là Thái sư Tuệ Quốc công. Tước phong “chính thức” này để dùng trong các văn tế. Còn dân làng Nhị Khê thì trước sau vẫn gọi ông là Đức Khai Quốc.
2. Nhà Mạc dứt nhà Lê vào năm Đinh Hợi (1527)
3. Chuyện này xảy ra vào năm Đinh Dậu (1537)
4. Rành: một loại rổ lớn.
Đầu to bằng cái rành: Thành ngữ dùng cách thân mật để ngạo tụi con trai đã lớn mà còn chơi trò con nít.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện