[Việt Nam] Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí

Chương 27 : Quận Lan thả diều lửa đốt thành, *******

Người đăng: Lịch sử Việt Nam

Ngày đăng: 12:13 29-08-2018

Bấy giờ tướng Bắc là Văn Lộc có công đánh thắng quân của Vân Trường, bèn sai người báo lên chúa Tây Định, tự khoe lập công đầu trong lần Nam chinh này. Tây Định nghe tin vui mừng khôn xiết, trước mặt triều thần bèn khen ngợi thêm lên, rồi sắc phong cho Văn Lộc chức đô đốc đồng tri và ban thưởng vàng bạc rất hậu. Từ sau trận Mật Cất, quân đội bên Nam, Bắc đều cố thủ thành trì không ra quân giao chiến. Đến ngày hai mươi tháng mười một, quân Bắc sai người đến ngoài thành Trấn Ninh nói to: - Mời tướng bên Nam ra ngoài thành nghe một lời. Bên quân Nam, chưởng cơ Tiến Đức và phò mã Đức Kiêm nghe nói như vậy bèn sai người phi báo với tiết chế Chiêu Vũ, một mặt cũng sai người ruổi ngựa báo lên nguyên súy biết. Nguyên súy Hiệp Đức sai người truyền lệnh cho tiết chế Chiêu Vũ chọn một người có tài ăn nói, bác cổ thông kim ra ngoài thành đối đáp với người bên quân Bắc. Tiết chế Chiêu Vũ cho gọi các tướng đến Lũy Cát bàn định, rồi lệnh cho cai hợp Tú Minh, đội trưởng Mỹ, xá sai Đô Quỳnh cùng ra ngoài thành Trấn Ninh đối đáp với sứ Bắc. Lại truyền cho cai độ Văn Giáp, mở cửa thành cho bọn Tú Minh đi ra, còn tự mình dẫn quân mai phục sẵn ở trong thành để nếu quân ra ngoài thành cứu viện. Bọn Tú Minh vâng lệnh, vào giờ Thìn ngày hai mươi ba, ba người áo mũ chỉnh tề, thong thả dắt tay nhau bước ra ngoài lũy, thấy sứ giả Bắc triều gồm một viên văn thần và hai viên võ tướng đã đứng chờ sẵn. Sứ giả hai bên gặp nhau, chào hỏi xong thì ngồi thành hai phía gần nhau. Sứ bắc hỏi: - Sứ Nam ra đây có việc gì? Tú Minh đáp: - Thấy mời thì ra để khỏi thất tín. Hơn nữa các quan bên Bắc vào cõi Nam đã hơn năm, sáu tháng nay, chúng tôi vì bận việc nước chưa lần nào rỗi để đón tiếp. Nhân vì hôm trước nghe có tên quân đến mời nên chúng tôi ra đây gặp các ông. Chẳng hay chuyến này vào đây, các ông có công cán gì, xin cho chúng tôi được rõ. Sứ Bắc đáp: - Nguyên là năm trước hoàng đế nhà Lê sai sứ vào hỏi Nam chúa về việc nước, nhưng khi sứ giả đến xã Thạch Hà thì chúa Nam sai tiểu tốt đến lăng mạ sỉ nhục, lại đuổi sứ giả ấy về. Ấy là Nam chúa trên không tôn kính thiên tử dưới khinh mạn triều đình, khiến cho hoàng đế oai trời thịnh nộ, phải ngự giá thân chinh thống lĩnh mười tám vạn hùng binh vào cõi Nam để trách phạt vì việc ấy. Bọn chúng tôi báo cho các ông biết như vậy chứ có gì đáng phải nói đâu? Tú Minh nghe xong cả cười đáp: - Các ông nhầm rồi. Tôi có một lời, mong các ông cứ bình tĩnh mà nghe: năm trước sứ Bắc đến tuần Thanh Hà, lẽ ra phải truyền gọi là "có sắc mệnh của Hoàng đế truyền cho chúa Nam" cho chúa thượng của chúng tôi nghênh tiến rồi mới cho rõ lý do. Cớ sao họ lại đem chuyện trong sắc mệnh của thiên tử nói trước với bọn tiểu tốt? Từ xưa bậc trí giả đi sứ nước ngoài, lời nói, việc làm đều phải đúng mực, ứng đối phải kịp thời, không làm nhục mệnh vua. Ấy, sứ giả phải cẩn thận như thế. Năm trước vì sứ Bắc không biết cách cư xử để đến nỗi bọn ính tuần chê cười cho là ngông cuồng, cũng vì là sắc lệnh giả nên nhất thời làm bọn sất phu tức giận, rồi hai bên sinh chuyện cãi vã nhau. Lúc ấy không thấy bọn chúng phi báo, sau đó trấn tướng biết chuyện liền cho người về bẩm với vương đình. Chúa chúng tôi sai người ra tiếp thì sứ giả đã trở về Bắc rồi. Người vâng mệnh đi sứ mà làm việc sơ suất như vậy, về sau có việc gì cũng không nên sai người ấy đi nữa. Vả chăng hoàng đế thể lượng trời đất, bao dung khắp chốn, đâu có chuyện nghe lời xúc xiểm mà quên bề tôi con cháu bậc quân thần. Vậy mà nay hoàng đế ngự giá thân chinh đem đại binh của triều đình vào cõi xứ Nam, há chẳng phải là tha thứ cho kẻ tiếm loạn mà trừng phạt bậc trung thần, bỏ không nghĩ chuyện gần mà mưu tính việc ở xa đó sao? Giá như có hùng binh trăm vạn, người xứ Nam này cũng chế ngự được, huống hồ chỉ có mười tám vạn thôi? Xứ Nam ta chẳng có gì đáng lo ngại cả. Ngày xưa trong chiến thư của Hàn Tín đời Hán có câu "Giặc đến dưới thành không kể sang hèn, hiền ngu, đều chém đầu cả" . Nay đã đem quân đến đây, chúng tôi chẳng biết vua Lê chúa Trịnh đâu cả, muốn đánh thì đánh, muốn về thì về, xin cứ tùy ý, bất tất phải nói nhiều. Sứ Bắc cả giận nói: - Năm trước quân Nam đã sỉ nhục, lăng mạ sứ giả của thiên tử, nay các ngươi còn bảo chẳng biết thiên tử là ai, chẳng kể gì vua Lê chúa Trịnh. Ăn nói như thế là nghĩa làm sao? Thế là Nam chúa của các người cậy nước đế, khinh thường lời nói của Trịnh vương, thật không phải đạo của bậc thần tử. Tú Minh cả cười đáp: - Lời nói của các ông tựa hồ như không trách mình mà lại đi trách người. Kẻ ức hiếp thiên tử, khinh mạn triều đình, chính là cha con họ Trịnh, nay các ông lại đem tội ấy mà gán cho Nam chúa của bọn ta, như thế mà không đáng xấu hổ sao? Chúa Nguyễn và Trịnh vương đều có công diệt Mạc, đuổi Hồ (1) khuông phù nhà Lê. Lúc trước chúa Chiêu Huân Tĩnh vương tôn phò Trang Tông hoàng đế nhất thống giang sơn, kính giữ đạo thần tử. Từ đó đến nay các chúa Nam đều tuân theo chính sóc của nhà Lê, không dám xằng bậy tự tôn tự đại, người khắp bốn biển đều biết. Còn như họ Trịnh thì Khang vương (Trịnh Kiểm), Triết vương (Trịnh Tùng), có chút công nhỏ diệt Mạc, nhưng phạm đại tội giết vua: đầu độc hai vua Chính Trị (Anh Tông) và Hoằng Định (Kính Tông), tự tiện lập các vua Vĩnh Thọ, Vạn Khánh (2). Lại nói phao lên là vua Thanh cho giữ chức thượng vị, ban án vàng, gia phong tước vương cho họ Trịnh. Cha con họ Trịnh dối trá tự tôn tự đại, ngụy xưng là Thái thượng chúa Thanh Đô vương, Kim thượng chúa Tây Định vương. Nói vua Thanh ban cho thì sắc phong ngày nào mà chúa Nam ta không được biết? Chúa Trịnh của các ông đã ức hiếp thiên tử sai khiến chư hầu, lại còn dám gán tội ấy cho chúa Nam ta. Nói như thế có nghe được không? Huống chi từ thời thuộc Hán, Đường, Tống đến các đời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần chỉ nghe nói có Thái thượng hoàng, Kim thượng hoàng đế, nay lại nói Thái thượng chúa, Kim thượng chúa thì chúng tôi tai chưa từng nghe, mắt chưa từng thấy. Do chúa Nguyễn với chúa Trịnh thì ai là trung thần, ai là gian thần? Xin các ông ban cho lời nói để chính nghĩa được sáng tỏ. Nghe đến đây sứ Bắc chỉ cúi đầu im lặng. Tú Minh lại nói: - Phàm trị hay loạn là do số trời, nước trị thì dân yên, vật thịnh. Nước loạn thì trời giáng tai ương, dân chúng đau khổ. Nước loạn thì trời giáng tai ương, dân chúng đau khổ. Nay Trịnh vương thống lĩnh quân lính vào đây để quyết chiến, vây đánh thì đánh, về thì về, cớ gì phải kéo dài cho phí thời gian? Nay các ông hãy hẹn trước, ngày nào thì đem quân ra giao chiến quyết phân thắng bại, chớ nên do dự nữa. Sứ Bắc nghe xong không biết đối đáp thế nào, bèn nói: - Hôm nay đã muộn, định thế nào mai sẽ biết. Rồi sứ giả hai bên đều chắp tay chào nhau, ai về bên nấy. Bọn Tú Minh vào thành Trấn Ninh rồi về Lũy Cát trình lên nguyên súy Hiệp Đức cùng các tường biết câu chuyện đối đáp với sứ Bắc. Nguyên súy nghe xong cả cười nói: Khá khen ngươi là Trương Nghi, Tô Tần (3) tái sinh không làm nhục mệnh vua vậy. Thật đáng khen thưởng. Nói đoạn bèn lấy hai mươi lạng bạc thưởng cho Tú Minh. Tú Minh vái tạ lui ra. Bấy giờ tiết chế Chiêu Vũ nói: - Thần tính Tây Định nghe báo lại câu chuyện đối đáp này tất sẽ đem quân đánh lớn. Xin nguyên súy truyền lệnh cho tướng cầm quân các đạo chuẩn bị sẵn sàng. Lại nói chuyện sứ Bắc trở về liền vào trường của Tây Định vương thuật lại việc sứ Nam trả lời hỗn xược, Tây Định cả giận mắng: - Bọn chuột nhắt dám khinh nhờn ta quá lắm. Ta phải dấy quân đánh diệt ngay, quyết không chịu cảnh hai chúa. Nói xong lại càng tức giận hơn, bèn truyền lệnh cho các đạo quân chỉnh điểm quân mã, thẳng tiến đánh gấp vào thành Trấn Ninh, ai vào trước sẽ được ghi công đầu, kẻ hèn nhát thoái lui thì bị chém đầu thị chúng. Các tướng đều vâng lệnh chuẩn bị tiến quân. Ngày hai mươi lăm, vào giờ Thìn, quân Bắc tiến thẳng đến dưới thành Trấn Ninh, tiếng hò reo vang dậy, tiếng chiêng trống vang trời. Quân hai bên đánh lớn, tiếng súng nổ ầm ầm. Quân Nam bám vào mặt thành mà đánh. Quân Bắc đi dưới đường đánh gấp vào thành, đôi bên giành giật nhau từ sáng tới tối không phân thắng bại. Rồi bên nào bên ấy đều khua chiêng thu quân về trại nghỉ ngơi. Bấy giờ bên quân Nam, nguyên súy Hiệp Đức nghe tin quân Bắc đánh vào thành Trấn Ninh bèn thống lĩnh đại quân đến thôn Cừ ở bên này sông Nhật Lệ chia quân đóng giữ, rồi cùng các tướng bàn kế sách đánh giặc. Đêm hôm ấy tiết chế Chiêu Vũ ngồi ở Luỹ Cát thấy tướng bên Bắc là quận Thắng đem hơn ba mươi chiến thuyền đến đóng ở ven biển đối diện Bàu Rò, gần thành Trấn Định khiến thuỷ quân ra vào khó khăn. Chiêu Vũ bèn sai các cai đội Kiên Lễ, Đình Nghĩa, Thiêm Vinh nhân lúc đêm tối đem quân tiến đến Đài Cát ở luỹ Mũi Dùi (4) đặt súng lớn để bắn vào sườn đoàn chiến thuyền của quân Thắng. Lại sai tham tướng Tài Lễ cho chiến thuyền ở cửa Nhật Lệ đón bắn để chia sẻ quân địch, quận Thắng tất phải thua chạy. Bấy giờ trong quân của quận Thắng không đề phòng trước đại bại, quân sĩ chết nhiều bỏ thuyền năm, sáu chiếc, số còn lại phải chạy về sông Gianh. Đến ngày hai mươi sáu, Tây Định Vương sai chọn quân tráng kiện cho uống rượu cấp nộ (5) rồi sai đến thành Trấn Ninh chọn chỗ nào tường thấp thì nhảy vào quyết chiến với quân Nguyễn. Thế là quân Bắc mượn chất bốc của rượu bèn bám tường trèo lên mặt thành, quân nấp dưới đường hầm thì bắn súng trợ chiến. Bấy giờ tướng Nam là hai chưởng cơ Tiến Đức và Đức Kiêm sai quân chống trả. Khi thấy quân Bắc trèo lên luỹ, quân Nam cứ cầm giáo nhọn mà đâm xuống, quân trèo thành chết lăn rất nhiều, xác chất đầy hào rãnh. Quân Bắc chồng các xác chết làm thang mà trèo lên, quân giữ thành ra sức đâm chết, thây chất từng đống cao. Quân sĩ đâm ra mỏi tay thì đẩy súng lớn ra bắn. Quân Bắc dùng dây thừng buộc thòng lọng quẳng vào nòng súng mà kéo xuống rồi tống đất đá, rơm cỏ vào làm tắc nòng không bắn được. Quân Nam lại dùng thương dài mà đâm, quân Bắc cũng đâm trả. Quân đôi bên cứ thế hỗn chiến kéo dài. Bấy giờ quân Bắc dùng sào dẫn hoả chất mồi lửa vào đốt mái dài, ngọn lửa bốc cháy rừng rực ngút trời, tướng bên Nam là cai cơ Thái Sơn và tham tướng Tài Lễ sai quân xúc cát ướt hất vào mới dập được lửa. Quân Bắc lại ném trái phá thành. Những quả trái phá một quả mẹ đẻ ra năm quả con, bén lửa nổ tung vỏ gang, tiếng vang như sấm động. Quân Nam trúng mảnh đạn chiếc rất nhiều, số bị thương không có chỗ nào ẩn nấp. Lúc ấy bên quân Bắc có người lính đứng ở ngoài thành kêu vọng vào với quân Nam: - Chúng tôi và các anh em đều là người cả, sao nỡ tàn hại lẫn nhau. Chỉ vì nhà chúa tranh chấp, anh em ta mới phải chịu chết oan. Tôi bảo anh em, nếu thấy trái phá bay vào người ở xa thì chạy nấp cho nhanh, người ở gần thì nắm sát xuống mặt đất mà tránh thì được vô sự. Quân Nam nghe lời cứ theo cách ấy tránh đạn. Đôi bên giao chiến cho đến tận đêm khuya, quân sĩ đều thấy mệt mỏi mới kéo đèn hiệu thu quân, ngừng trận cho quân sĩ về trại nghỉ ngời. Người thời bấy giờ có thơ vịnh trận đánh thành Trấn Ninh như sau: Chiến khí xung thiên sáng vọng lâu. Nước trời lấp loáng ánh đêm thâu. Rồng cuồn đêm đấu giơ nanh vuốt, Hổ dữ ngày tranh vểnh ngược râu. Trước luỹ quân say liền đánh trận, Trong thành quyết chí lập công đầu. Địch quân lạ có ai kêu bảo, Mới biết lòng trời muốn giúp lâu. Đêm ấy Tân Định vương thấy quân sĩ không hạ được thành bèn triệu các tướng đến để bàn: - Thành Trấn Ninh rất kiên cố. Quân Nam tuy ít nhưng hùng mạnh, quân ta đông nhưng mệt mỏi, tiến đánh đã mấy ngày mà chưa phân thắng bại. Quân sĩ chết và bị thương rất nhiều. Các khanh có cao kiến gì mau thưa bày để tính liệu. Đô đốc Dĩnh quận công thưa: - Việc thành bại do ở trời, há phải do con người muốn làm ngược lại mà được đâu? Huống chi từ xưa đã có lời sấm rằng: "Bắc tráng kim thang thê, Nam kiên bích ngọc thành" (6). Theo đó mà suy thì quả là đúng. Binh pháp nói: "Đánh thành tai hoạ của binh gia đó là điều tối kỵ của phép hành binh. Huống hồ ngày nay đang giữa tháng trọng đông, quân sĩ không quen thuỷ thổ, voi ngựa không chịu nổi giá rét. Một là ba quân mệt mỏi không có lòng chiến đấu, hai là lương hướng vận chuyển xa xôi ngoài ngàn dặm, quân sĩ dễ lâm vào thế đói ăn. Chi bằng xin nguyên soái hãy rút quân về mưu tính kế khác. Tây Định nghe xong cả giận nói: - Ngươi là kẻ nhu nhược, bàn luận vu vơ như bọn hủ nho chỉ biết thương yêu vợ con mà làm hỏng gia thế, mưu tính cho bề trên tin dùng để bề trên nhởn nhơ vui thú, mà không chịu hết lòng rửa hận báo thù cho nước, miễn sao cho được yên thân mà thôi. Như thế thì dùng ngươi có được ích gì? Nói đoạn bèn bãi quyền của quận Dĩnh, biếm làm thứ dân. Lúc ấy thái tể Lan quận công Nguyễn Trực nói: - Lời quận Dĩnh kể cũng có lý, tuy biết ý trời mà không hiểu thời vận, phàm dấy quân đi đánh dẹp nhất cử nhất động làm việc gì đều rất khó khăn. Nay vương thượng thống lĩnh đại quân vào đây đã hơn năm, sáu tháng, mới bắt đầu đánh vài ba trận chưa phân thắng bại. Người xưa từng nói: "Đã đến núi báu ai chịu về không" . Thần xem như trận đánh hôm trước thì quân sĩ chưa gắng hết sức hết lòng cho nên mới không hạ được thành. Cúi xin vương thượng truyền lệnh cho các tướng phải đồng lòng đánh phá áp sát thành Trấn Ninh, đào sập tường thành, quân ta đổ dồn vào như kiến thì bọn chúng không thể chế ngự được. Còn như muốn bắt cọp mà không vào hang hổ thì làm sao bắt được? Binh pháp nói: "Đặt vào chỗ đất chết rồi sau mới sống" . Như thế thì chỉ một trận mà thu được thành công vẹn toàn. Tây Đinh vương nghe xong rất mừng, vỗ tay cười lớn nói: - Lời khanh rất hợp ý ta ! Bèn truyền lệnh cho các tường theo kế ấy sửa soạn mà làm. Đến ngày hai mươi bảy, từ sáng sớm, tướng Bắc Hào quận công Lê Thì Hiến đặt súng ở đài Gò Mắm bắn gãy cầu Mũi Nại. Tướng bên Nam là cai cơ Thuận Trung đóng quân ở đài Mũi Thóc lệnh cho quân sĩ đánh sang. Bỗng đạn đại bác của quân Nam bắn trúng làm tắc nòng súng của quân Bắc, quân của quận Hào không bắn trả được. Thế là quân Nam lại đi lại dễ dàng trên cầu phao Mũi Nại. Khoảng giữa buổi sáng quân Bắc chỉnh đốn chiến cụ, rồi cho ba nghìn quân cầm cuốc quai để đào chân thành, nghe tiếng súng lệnh nổ vang thì nhằm thành Trấn Ninh mà lao vào như cơn lốc cuốn lá rụng. Các tướng bên Nam trông thấy liền chia quân chặn đánh. Quân hai bên đánh lớn. Súng đạn cung nỏ cùng bắn tới tấp như mưa. Bấy giờ ba nghìn quân Bắc đào thành đều đã uống rượu cấp nồ, chẳng quản sống chết xông thẳng rào gai chông nhọn; rồi sa sức đào bới chân thành. Tường thành có nguy cơ bị sập đổ. Bấy giờ tướng Nam là cai cơ Tiến Đức và Đức Kiêm, tham mưu là kỷ lục Xuân Đài chia quân đi cứu ứng, thấy thế giặc đông mạnh quân mình không chống cự nổi, sợ hãi nghĩ. "Quân giặc hung hãn như vậy, quân ta khó thắng nổi. Chi bằng bỏ thành cùng quân các đạo chặn địch lui về chiếm đại lũy Mũi Nại để cùng quân các đạo chặc địch thì may ra mới chế ngự được" . Các tướng bàn luận xôn xao chưa quyết, có người cho là đuợc, có người bảo là không nên. Bọn Tiến Đức bèn sai người về trình với nguyên súy Hiệp Đức tình hình như thế. Nguyến súy Hiệp Đức nghe nói cả kinh bèn sai Văn chức ở ty tướng thần lại là Văn Cảnh đến thành Trấn Ninh truyền cho các cai cơ Tiến Đức và Đức Kiêm cùng các tướng như thế. . . như thế. . . Lại sai Vũ Lược đến Lũy Cát báo với tiết chế Chiêu Vũ: - Ở Trấn Ninh quân Bắc áp vào chân thành, làm cho thành đổ. Chưởng cơ Tiến Đức và Đức Kiêm sai người phi báo muốn xin bỏ thành, đem quân về chiếm giữ Mũi Nại. Nguyên súy truyền cho tiết chế đem quân đi cứu ứng ngay thành Trấn Ninh để khỏi xảy ra sơ suất đáng tiếc. Tiết chế Chiêu Vũ nghe xong nói: - Ông Vũ Lược hãy mau về trình lên để nguyên súy biết: bổn phận của ta là đóng góp giữ Lũy Cát, nếu không làm tròn tất sẽ bị trọng tội. Còn giữ thành Trấn Ninh là bổn phận của nguời khác. Các tướng cùng hưởng lộc chúa cả thì phải gắng sức báo đáp ơn chúa, còn ta không dám bỏ lũy này đến đấy. Vũ Lược nghe xong ra về. Tiết chế Chiêu Vũ mật bàn: - Vũ Lược về trình như thế thì nguyên súy tất phải đem quân đến cứu ứng cho Trấn Ninh, bây giờ ta phải đem quân đi trước để nguyên súy khỏi lo lắng. Nói đoạn bèn lệnh, cho quận Hiệp thay giữ Lũy Cát, tự mình vội đem quân đi cứu Trấn Ninh. Lại sai lấy mảnh ván làm biển viết chữ dựng bên đường: "Chiêu Vũ đã đem quân đi cứu ứng, xin nguyên súy thay giữ Lũy Cát giùm cho" . Ý Chiêu Vũ muốn cho nguyên súy đến đấy thấy biển đề như vậy thì sẽ dẫn quân về. Lại nói bấy giờ Văn Cảnh đến thành Trấn Ninh trình với chưởng cơ Tiến Đức, Đức Kiêm cùng các tướng rằng: - Nguyên súy gởi lời đến nói với các ông là các tướng cùng hưởng lộc hậu của triều đình, phải ra sức báo đáp ơn lớn của thánh thượng để trọn đạo thần tử. Huống chi cả dùng binh tiến thì dễ mà lui thì khó. Nay các ông muốn lui quân về giữ lấy Mũi Nại, nếu quân Bắc thừa thế đuổi theo, bấy giờ quân ta phía trước gặp sông lớn, phía sau quân giặc đuổi theo thì kinh hồn hoảng sợ. Khổng Minh có tái sinh cũng không chế ngự được. Các ông hãy nghỉ ngơi chốc lát, đợi nguyên súy đem quân đến thay đóng giữ rồi các ông tùy ý làm gì thì làm, nguyên súy cũng không cố ép. Các ông nên hết sức cố thủ chờ đợi, chớ có nóng vội. Cai cơ Tiến Đức, Đức Kiêm nghe lệnh truyền như thế cả sợ, vội nói với Văn Cảnh: - Xin ông trình để nguyên súy xét cho: bọn tiểu tướng chúng tôi nhất thời bàn bạc nông cạn, mưu tính chưa ngã ngũ ra sao, mong nguyên súy lượng thứ cho. Huống hồ ngày nay quân giặc đã đến dưới thành, một bước đi đâu cũng khó, bọn chúng tôi đâu dám lui quân bỏ lũy, xin tuân lệnh tử chiến giữ Nguyên súy không phải vất vả đích thân cầm quân đến đây nữa. Văn Cảnh cáo từ, trở về thuật lại với nguyên súy. Nguyên súy Hiệp Đức cả mừng nhưng vẫn còn lo ngại. Bõng lúc ấy Vũ Lược trở về báo Chiêu Vũ không chịu đem quân đi cứu ứng. Hiệp Đức cả sợ, bèn truyền lệnh cho các tường rồi đích thân dẫn quân đi cứu thành Trấn Ninh. Đi được nửa đường, quân tiên phong đã nhìn thấy tấm biển gỗ dựng bên đường, vội quay lại báo cáo cho nguyên súy biết. Nguyên súy Hiệp Đức bèn chọn mấy tướng tâm phúc đem quân tráng kiện đi cứu viện cho Trấn Ninh, chỉ lưu lại hộ vệ cho mình hơn một nghìn quân, một ngựa chiến và một ngọa kim thương. Văn chức ty tướng thần lại là Văn Cảnh thấy vậy thưa: - Quân giặc kéo đến dưới thành, thắng bại chưa quyết mà nguyên súy lại cho hầu cận đi xa, nếu có việc khẩn cấp biết ấy gì mà hộ vệ? Hiệp Đức cả cười nói: - Ta giữ được ở đây. Thắng được ta, quân giặc phải đông hơn mười lần. Nếu như thành công thắng lớn ấy là kể bề tôi biết lòng báo đền ơn nước, nếu thất lợi thì ta một ngựa một thương cũng quyết tử chiến với giặc, ít nhất cũng phải giết mấy chục tên. Xảy ra chuyện gì chăng nữa thì ta sẽ làm thần linh của đất này để muôn đời được hưởng thờ cúng. Ta có gì phải sợ hãi đâu? Nói xong quắc mắt có ý tức giận. Quân sĩ biết chuyện đều xuýt xoa khâm phục. Người đương thời có thơ bình tán như sau: Rực rỡ trời thanh mống vượt ngang, Trung thành son sắt nổi uy danh. Thương vàng thẳng tiến trừ hung ác, Ngựa sắt bon nhanh đạp lướt băng, Đánh trận bằng mưu người ít kịp, Lâm nguy ứng biến mấy ai bằng, Anh hùng cảm khải lời tâm huyết, Vạn thủa danh vang với thế gian Lại nói chuyện Chiêu Vũ dẫn quân đi cứu viện, tới chập tối thì đến Đài Mây thành Trấn Ninh. Thấy tường thành bị quân Bắc đào sắp đổ, tiết chế Chiêu Vũ nghĩ ngợi hồi lâu, nảy ra một kế. Bèn sai người tìm rơm củi buộc thành những cây đình liệu (7) dựng hai bên phía trong lũy rồi châm lửa đốt. Lửa cháy sáng rực như ban ngày. Tướng sĩ trong thành thấy vậy sợ hãi hỏi Chiêu Vũ: - Quân giặc đang áp thành, chân tướng sắp bị đổ, không hiểu tiết chế cho đốt đuốc sáng trưng như thế để làm gì? Chiêu Vũ cười đáp: - Giặc không dám vào thành công của ta lại càng lớn, các ngươi chớ lo. Mọi người nghe nói đều lo lắng sợ hãi không ai biết ý tứ của tiết chế thế nào. Thế là quân Bắc ở ngoài thấy lửa cháy ngùn ngụt trong thành, lại nghe Chiêu Vũ đem quân đến tiếp viện, ngờ là quân Nam có quỷ kế đặt quân mai phục nên lui xa không dám tiến đến gần lũy. Quân sĩ trong thành cả mừng. Tiết chế Chiêu Vũ sai quân đi thu hết ghe thuyền của dân ở ven sông, phá ra lấy ván ốp vào hai bên chân tường ở những chỗ sắp đổ. Rồi sai quân chuyển cát trắng đổ lèn vào giữa, lại dùng sọt đựng đầy đất bồi chồng lên nhau để giữ tường. Thành lũy lại chắc chắn như cũ. Quân Bắc thấy vậy sợ hãi nói: - Như thế phải chi là có trời giúp sức, sức người sao có thể làm nổi? Hách Chiêu ngày xưa giữ thành cũng không hơn thế được! Tướng bên Bắc bèn sai tên quân thiện xạ trèo lên mặt lũy hết đổ sọt cát rồi núp trong đó, thò nòng súng qua mặt lũy mà bắn. Quân trong thành không biết giặc từ hướng nào bắn tới, bị sát hại rất nhiều. . . Bấy giờ viên cai đội người vùng này tên là Bá Dương dẫn hơn ba trăm quân đi tuần phía trong lũy để xem nơi nào cần thiết thì hỗ trợ, khi đến chỗ tường mới đắp ở Đài Mây thì nghe một tiếng súng nổ, quân của Bá Dương trúng đạn chết mất năm sáu người. Bá Dương liền cầm mã tấu nhảy lên mặt lũy. Tên quân Bắc trông thấy vội nhảy ra bỏ chạy, liền bị Bá Dương vung mã tấu chém làm hai đoạn. Bá Dương cắt lấy thủ cấp đem bêu ngoài lũy rồi nói lớn: - Tên giặc Trịnh đã bị ta chém đầu ở đây. Kẻ nào chịu trói tay đầu hàng sẽ được tha chết! Quân Bắc trông thấy cả sợ bảo nhau: - Thật chẳng khác gì Quan Vân Trường, Trương Dực Đức đời xưa. Rồi chúi đầu nấp dưới chân tường không dám ngước nhìn lên. Bá Dương hô quân nhảy ra đánh. Bấy giò Tây Định vương đang đóng quân ở doanh Cây Ủng xã Phúc Địa (8) liền truyền lệnh cho đại quân tiến đánh. Sai quân sĩ lựa chiều gió thả diều giấy cho bay vào trong lũy. Dưới cánh diều đeo thuốc phát hỏa, khi diều rơi chạm nóc nhà, đài súng thì thuốc lửa bốc cháy. Thế là doanh trại, kho tàng trong thành cháy thành rừng rực gần xa đều trông thấy. Cai cơ Thái Sơn vội đưa quân đến chữa cháy. Có khi diều giấy rơi vào giữa đội quận, có người lấy nước để dập lữa thì lửa lại càng cháy lan khắp người. Quân Nam không biết dập tắt bằng cách nào. Bấy giờ có người lính bên quân Bắc ở ngoài lũy gọi bảo quân Nam rằng: - Diều giấy có mang vật dẫn hỏa bằng dầu rái, nếu rơi trúng người thì xúc cát hất vào mà dập, lữa sẽ không cháy lan nữa. Còn đổ nước lửa cháy loang ra sẽ chết. Quân Nam nghe lời làm đúng như thế, quả nhiên được vô sự. Bấy giờ tiết chế Chiêu Vũ thấy quân giặc chiếm sát dưới chân thành. Quân hai bên hỗn chiến xông vào tranh kích đoạt giáo với nhau. Chiêu Vũ thấy như vậy chẳng đúng phép đánh thành, bèn nảy ra một kế sai quân cưa hơn ba trăm tấm gỗ, mỗi tấm dài sáu thước, rộng ba thước, lấy đinh sắt đóng thò đầu qua ván rồi trồng cọc buộc cây gỗ dài chừng ba chục thước, đầu chúc ra ngoài, dùng dây thừng buộc bàn đinh phía đầu cây gỗ. Khi quân Bắc xông vào chiếm thành thì sai quân bỏ thừng thả bàn đinh xuống, rồi kéo lên ngay, mỗi lần như thế có đến năm sáu tên quân Bắc bị dập vào bàn đinh. Quân Bắc bị câu bắt lên thành đều run rẩy kêu khóc, chẳng bao lâu thì chết. Bọn ở dưới thành nhìn lên thấy vậy đều sợ hãi bảo nhau: - Quân Nam dùng độc kế, thà chịu chết còn hơn bị trúng bàn đinh đau đớn như thế! Rồi chúi đầu ẩn dưới đường hầm không dám trèo lên chiếm mặt lũy nữa. Quân hai bên cầm cự cho đến canh ba thì thu quân về trại nghỉ ngơi. Người thời bấy giờ có thơ bình tán rằng: Lòng tàng thao lược suốt bình sinh Mưu kế ngăn lui trăm vạn binh Chỉ thả bàn chông quân địch khiếp Chẳng cần kiếm lớn chém nghê kình Chớ rằng Gia Cát nay tìm khó Lại thấy Lưu Cơ mới tái sinh Thỏa chí anh hùng mưu giúp chúa Trần ai quét sạch, nước phồn vinh Lại nói ngày hai mươi tám tháng ấy, vào giờ Dậu, Tây Định vương thấy đánh liền mấy ngày không hạn nổi thành Trấn Ninh, lấy làm tức giận, lại ra lệnh cho quân sĩ áp vào đánh lớn, ném trái phá tới tấp vào trong thành. Chiến thuyền của quân Nam trông thấy liền báo cho quân trong thành biết. Thế là đạn lửa cũng không còn hiệu quả. Quân hai bên xông vào hỗn chiến, đèn đuốc sáng như ban ngày, đánh đến gần sáng vẫn chưa phân thắng bại, rồi bên nào tự lui về trại bên ấy nghỉ ngơi. Bấy giờ quân Bắc vào chinh chiến, quân sĩ đều đã mệt mỏi, bàn thầm với nhau: - Các đời chúa trước khuông phò nhà Lê thì Nguyễn chúa Chiêu Huân có công hàng đầu, vậy mà con cháu họ Nguyễn chỉ được cai quản một góc đất, chưa xứng với công lao tổ tiên. Nay chúa Trịnh ngoài ta một mình cai quản bốn trấn, nắm thiên hạn trong lòng bàn tay mà còn tham lam đem quân vào tranh quyền ở xứ Nam này khiến cho anh em bọn ta phải chịu chết oan uổng, bỏ cả cha mẹ vợ con, thế là nghĩa lý gì? Nói xong mọi người bều bừng bừng tức giận. Từ đó trong quân Bắc lan truyền tâm trạng oán giận. Lại nói ngày hôm ấy Hiền vương đóng ngự doanh ở phủ Toàn Thắng nghe tiếng súng nổ vang như sát ngay bên tai, bèn sai quân thám mã đến các cửa biển nhưng không thấy gì lạ, mới biết quân hai bên đánh lớn ở thành Trấn Ninh, trong lòng có phần băn khoăn lo nghĩ. Vương bèn sai văn chức ở ty tường thần lại là Tái Trí ruổi ngựa ra quân doanh của nguyên súy Hiệp Đức và tiết chế Chiêu Vũ hỏi tin chiến sự. Tái Trí vâng mệnh đến quân doanh ở thôn Cừ trình với nguyên súy Hiệp Đức về việc vương sai đi hỏi tin chiến trận như thế nào. Tài Trí lại đến thành Trấn Ninh, vào trướng quân yết kiến tiết chế Chiêu Vũ, Tài Trí thưa: - Vương thượng gửi lời đến bảo tiết chế tướng quân rằng hiện nay thế lực quân Bắc mạnh lớn, tiết chế cho Vương thượng biết sức ta đánh giữ thắng bại thế nào? Vậy xin tiết chế cho lời lượng định để tiểu nhân về bẩm lên vương thượng. Chiêu Vũ nghe xong liền rũ tay áo nghiêm giọng nói: - Quân Bắc tuy đông nhưng như bầy quạ đàn sẻ, như ong kiến sâu bọ theo gió mà họp bầy, chỉ bị một trận mưa là tan tác cả thôi, không có gì đáng sợ. Hơn bảy tám năm trước cầm quân ra đánh ở Nghệ An, ta đã biết tim gan quân tướng nhà Trịnh. Lúc ấy quân ta chiếm giữ những chổ hiểm yếu như vào chỗ không người. Ngày nay ở đất ta lũy chắc hào sâu, binh cường tướng dũng, vui lòng chiến đấy, thế tất không có chuyện gì đáng lo. Ngươi về triều bẩm ên thánh thượng, xin thánh thượng cứ yên giấc không phải lo nghĩ. Tài Trí nghe Chiêu Vũ nói trong lòng còn do dự chưa dám trở về. Chiêu Vũ biết ý lấy giấy cầm bút viết như sau: "Thần xin ra sức cố thủ, quyết giành thắng lợi, dẹp tan giặc để báo ân nước. Đấy là trách nhiệm lớn của kẻ bề tôi, nếu xảy ra sơ suất, thần xin chịu tội tru di tam tộc để nghiêm quân lệnh" . Chiêu Vũ viết xong đưa cho Tài Trí đem về triều đình Hiền Vương. Tài Trí cầm thư của Chiêu Vũ rồi cáo từ, luôn đêm trở về phủ Toàn Thắng. Bấy giờ có anh em Hào Lương là con trai Chiêu Vũ cùng đi theo trong quân, thấy Chiêu Vũ viết như vậy thì đưa mắt nhìn nhau, chỉ có cậu thứ ba là Nguyễn Thành ngồi mỉm cười. Anh em Hào Lương, Trung Thắng bước lên thưa với cha: - Cứ như ngụ ý của anh em chúng con, thế địch đang mạnh mà quân ta thì đã mỏi mệt. Hơn nữa thành trì đang bị vây hãm, phụ thân viết cam đoan trong tờ quân lệnh như thế, nếu quân ta không ngăn được giặc thì cả ba họ đều bị nguy khốn hay sao? Bấy giờ trông cậy vào đâu? Chiêu Vũ nghe xong đập tay cười lớn nói: - Con trai ta chưa am hiểu việc quân cơ. Người xưa từng nói: "Binh gia là kẻ giỏi mưu quỷ kế" . Nay đang lúc ta và địch giằng co nhau, nếu ta nói không địch nổi thì ba quân sẽ lo sợ, thế không cứu vãn được. Nếu sự thể quả là không địch nổi thì bốn phương mênh mông, ai tru di nổi ba họ nhà ta? Các con phải bình tĩnh mà xem xét, không nên nói năng lộn xộn. Bọn Hào Lương bấy giờ mới hiểu hết ý cha, bèn sụp lạy rồi cùng Chiêu Vũ ngồi bàn mưu kế đánh giặc. Lại nói Tài Trí về đến phủ Toàn Thắng liền vào triều trình thư của tiết chế Chiêu Vũ lên Hiền Vương. Hiền Vương cả mừng, vuốt râu nói với các tướng: - Chiêu Vũ từ khi làm tướng đem quân đi đánh giặc tới nay, lập mưu đều đúng, định kế không sai, đã đánh là thắng, đã giữ là chắc, không thua kém các danh tướng đời xưa. Nay Chiêu Vũ đã hứa, ta không còn phải lo ngại gì nữa. Rồi Hiền Vương và các tướng cùng vui vẻ bàn luận tình hình chiến trận. Người đương thời có câu bình tán Chiêu Vũ như sau: Sừng sững trời Nam bậc tướng tài Thần cơ phép diệu ngút trời mây Tình thần tướng sĩ vui hoan lạc Nghĩa nặng quân thần chẳng đơn sai Cõi thế kỷ lân rầy đã có Trận tiền sâu kiến phải chạy dài Vì không lệnh trạng làm hồi ấy Sao được ba quân trổ hết tài? Chú thích : (1) Hồ: ở đây chỉ quân xâm lược phương Bắc nói chung. (2) Vĩnh Thọ, Vạn Khánh: Đều là niên hiệu của vua Lê Thần Tông, có hai giai đoạn làm vua, nói đúng hơn đáng chép là Vĩnh Tộ (niên hiệu giai đoạn trước) và Vạn Khánh (niên hiệu giai đoạn trước) và Vạn Khánh (niên hiệu giai đoạn sau). (3) Trương Nghi, Tô Tần: Hai thuyết khách nổi tiếng thời chiến quốc. (4) Mũi Dùi: tên đất. Nguyên văn viết bằng chữ Hán là "Mỗi chùy" đọc then tên Nôm là Mũi Dùi. (5) Nguyên văn là "Cấp nộ tửu", nghĩa là rượu có khả năng kích thích mạnh. (6) Có nghĩa là: "Bắc mạnh đánh hào sâu, Nam bền giữ thành lũy" . (7) Đình liệu: nguyên nghĩa là bó đuốc làm bằng loại gỗ dễ cháy tẩm nhựa trám hoặc nhựa thông, lữa cháy to, không tắt. Ở đây có nghĩa là bó đuốc. (8) Trong nguyên văn có chỗ chép là Phúc Tự.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
www.tangthuvien.vn
 
Trở lên đầu trang