[Việt Nam] Kẻ Cướp Bến Bỏi
Chương 2 : II
Người đăng: Lịch sử Việt Nam
Ngày đăng: 20:46 20-12-2018
.
Nỗi nhớ (Hữu sở tư)
Con nhà ai nho nhỏ
Hai đứa sóng đôi vừa đi vừa nói
Đã mấy người quên hẳn được tình
Ta cũng nhớ đến con ta
Nào lúc bám lấy mẹ kêu đói
Nào khi níu lấy ông học vái
Nay trước cửa nhà vắng đi một nửa
Thấy bay mà sinh lòng nhớ thương
- Hóa Dân (dịch nghĩa) -
Chiêm bao thấy con gái đã mất (mộng vong nữ)
Cha mẹ xa, mình thì đang ốm
Nhớ con mà vẫn phải nén đau thương
Bỗng nhiên trong giấc mơ lúc nửa đêm
Nhác trông thấy con mà nước mắt giàn giụa
Áo quần đã không đủ ấm, lại rách
Nét mặt buồn bã
(Con ạ) Nhà ta tuy nghèo nhưng dưa muối không thiếu
Dù có tân khổ thì con hãy cứ trở về.
- Nguyễn Văn Bách (dịch nghĩa) -
Viết hôm tiếp được thư nhà (Đắc gia thư, thị nhất tác)
Người ta sinh ra không phải là cỏ cây
Có buồn có vui vì có hiểu biết
Ai không có cái lụy gia đình
Nhìn xuống trông lên, nước mắt tràn thấm ngực
Dời ta trót lầm lỡ vì danh hờ
Hàng mười năm chìm đắm trong bút mực
Sau bao khó khăn thi mới đỗ
Tiều tụy không còn ra hồn người
Lần này gặp vận mà đi
Đã xét mình sửa hết mọi khiếm khuyết
Bỗng trận gió kinh khủng từ đâu đưa đến
Làm cho chim bay phải cụp cánh
Đời thịnh đâu có bỏ phí tài năng
Chỉ có mình lơ đãng, vụng về, tự rước lấy lỗi
Đương miệt mài nghĩ đền bù những điều sai trái
Buông màn chỉ cúi đầu im lặng
Chợt có khách từ quê nhà đến
Trông thấy ta chỉ những than thở
Báo tin rằng: "Ông có sự buồn
Bà chị đã qua đời rồi"
Vội vàng tay mở phong thư
Tinh thần bàng hoàng, rối loạn
Than ôi! Tình cốt nhục
Là khách phương xa, lại càng đau thương
Ta mới đi chưa được vài thảng
Mà đã bao nhiêu biến cố không ngờ
Nữa rồi ra ngày còn dài
Ai lại có thể không có sự may rủi
Nỗi buồn dằng dặc như trời đất
Thương cảm biết bao giờ cùng
Trời đã tối, một mình trầm ngâm
Ba lần trở ra, nhìn về phía Bắc thành.
- Hoàng Tạo (dịch nghĩa) -
Về đến nhà (Để gia)
Mái tóc đã bơ phờ rồi mà mình vẫn không biết
Nay là lúc được về trông thấy làng xóm
Đây là điếm Cây Gạo, sương đã tan rồi
Kia là hổ Ngựa Trời, vầng ô đương lên chậm
Bạn hàng xóm thình lình gặp nhau, sủng sớt hỏi thăm
Mẹ già chợt trông thấy con, mừng mừng tủi tủi
Trước nay đã trải nhiều hoạn nạn, từ đây xin chừa
Đối với người nhà không dám nhắc đến chữ "biệt ly" nữa.
- Nguyễn Văn Tú (dịch nghĩa) -
* * *
Các phường hội làm ăn ở Kẻ Chợ đều có quê gốc. Cả đến bọn nhuộm thâm, nhuộm nâu ở Đồng Lầm dưới Nam lên, trú lại bên kia hổ Ba Mau, thế mà đông dần thành một phường, con đường phía nam vào Kẻ Chợ rồi cũng thành tên ô Đồng Lầm.
Đất Kẻ Chợ là như vậy. Người tứ xứ đến ở thành phường phố, hàng chục, hàng trăm nhà vẫn giữ tên đất quê. Riêng hai chữ Kẻ Chợ thì lại khác. Thời vua Minh Mệnh đã lấy của trấn Sơn Tây và của Sơn Nam nhiều phủ huyện ghép vào Kẻ Chợ lập nên tỉnh Hà Nội, quan Tổng đốc đóng trong thành cũ, gọi là Bắc thành. Bấy giờ sang đời vua Tự Đức, cái tên tỉnh Hà Nội được đặt đã ngoài hai mươi năm. Nhưng chẳng mấy ai để ý, vẫn chưa quen, người qua lại cứ gọi đấy là Kẻ Chợ.
Trong Kẻ Chợ, các phường đều có đình miếu thờ vọng thành hoàng làng. Ấy là nói về những nhà thợ nghề đã ngụ một đời, vài đời ở đây. Không kể mỗi mùa mỗi vụ gặt hái xong, người các nơi ra đất thị thành kiếm cái ăn thì các đình, chùa, các đền miếu, am thờ đều là nơi trú chân quen thuộc của mỗi cánh, mỗi nghề.
Chỉ có thợ cối chẳng vùng nào chuyên. Đâu cũng có thợ cối và mỗi nhà hàng năm lại sửa sang lại cối, nhất là từ tháng mười sau tết cơm mới cho tới một chạp áp tết cả. Thợ cối cũng chẳng thành cánh. Thường thì hai ba người họp lại, đi rong. Ai quen thì hỏi mối các nhà đã làm, nhà nọ mách nhà kia. Rồi nằm đợi việc hay có việc rồi, cơm rượu chiều ở nhà chủ xong, ra nằm trọ đình cổ Lương. Cũng thành lệ, tìm thợ cối thì hỏi ông từ đình cổ Lương. Chẳng thế mà từ bao giờ đã có câu vè:
"Nên ra thì múa tứ linh. Không nên thì lại nằm đình cổ Lương". Mình chẳng được nên gì thì cũng nằm đình cổ Lương. Thợ cối làm mỗi nhà vài ba hôm thì đã xong việc, không như thợ chữ, thợ khắc trọ ở đình cả tháng. Phó hai, phó nhỏ nhộn nhịp gạo nước thổi nấu lấy, chẳng giống thợ cối, thợ đấu chỉ tạm bợ một hai bữa thì ăn ghé bếp ông từ.
Đình Cổ Lương cũng như đình, đền các phường, lại như cái chợ tìm việc, hỏi việc. Năm nào, mùa nào cũng đã quen. Cái am, cái miếu phường nào hầu như đâu cũng thế. Một quán chè tươi, có cả rượu trắng dọn ở góc ngoài. Những chân tường, chân cột phía trong, các nồi cơm nghi ngút khói rơm, khói vỏ bào. Tùy hạng người, cái tam quan cũng chẳng khác cái chợ. Chợ Cầu Đông, chợ Ông Nước, chợ cửa Nam họp ban ngày, các cửa đình, tam quan là cái chợ đêm - chợ đêm chỉ rặt người ăn uống, người ngủ trọ. Đình Hàng Quạt, đình Hàng Hài, những người lên theo vụ, đẽo bản khắc in, nghề giấy, bàn xoay thợ tiện rồi người gánh hàng dầu, thúng than hoa, những bong bóng lợn đựng rượu, không ai biết ai, có người chỉ dựa tường ngủ ngồi ngoài cửa, không mất tiền cho các ông từ, ông tự.
Cõi với Trắt trọ ở đình cổ Lương đã được mấy đêm. Chỉ mình Cõi phó cối, Trắt đã ra bến Bà Móc đong dầu rồi quảy thùng dò dẫm đi các phố. Ngày ngày, mỗi người mỗi việc, người gánh dầu, người khoác vòng mây lên vai dạo các ngõ ngách, xẩm tối trở lại ngủ đình.
Cõi nói :
- Chẳng được một kẽm gãy. Đi rạc cả cẳng, không ma nào gọi thợ cối. Chưa đến tháng mười mà.
- Ừ nhỉ!
- Nhưng mà biết nhà đội Quang rồi.
- Tôi cũng đi qua mấy lần.
- Mới trên Sơn xuống mà dinh cơ đã oai lắm.
- Chuyện! Nhà quan, đâu chẳng đã sẵn.
Cõi bàn :
- Chú ở ngoài này xem xét ra sao đến khi tôi ra thì ta tính. Cạn túi rồi. Tôi phải về trữ lương ăn đem ra. Hôm đi không để ý, hai người ăn mà không kiếm ra đồng nào thì hỏng.
- Ừ nhỉ!
Ra bến đò sang Ghềnh, Cõi còn quay lại, dặn Trắt :
- Cứ thế, chú ạ.
Trắt cười :
- Được, được rồi.
Suốt ngày, Trắt gánh dầu qua các phố. Tối về nghỉ chân ở đinh Hàng Hòm. Kể ra, đình cổ Lương cũng vào những đình giữa phố xá, tiện đi lại, nhưng đêm ngày người nghỉ, người trọ nhiều đâm ra tạp. Bên đình Hàng Hòm tuy nhỏ mà thoáng hơn, lại yên tĩnh. Ở đình Cổ Lương cứ ghê ghê. Chẳng bận đến mình nhưng lỡ chẳng phải đầu cũng phải tai. Ở đấy, trong phường các phố Hàng Buồm, phố Hàng Bạc, Hàng Đào - những phố có hiệu buôn to, người Khách, người ở Trâu Khê lên mở cửa hàng, lại nghề đổi tiền đồng tiền kẽm. Hàng Đào thì mua lĩnh Kẻ Bưởi, the La, chồi Bùng, toàn những của một đống tiền, cái đám thợ ra làm, đám lái đeo đây đi bán, trong lưng ai mà chẳng sẵn của. Dễ bị cướp như chơi.
Không mấy khi trọ đình Hàng Bạc. Có bạc thì chắc mất toi, bằng như khố rách thì chẳng ai ngu mà rước lấy cái dại. Ngay ở đình cổ Lương, những lúc quá chén, có người cũng lè nhè :
- Cứ đong rượu đi, thiếu tiền thì chốc nữa sang chịt cổ vài thằng thợ bạc Trâu Khê.
- Phải, phải, bạc của nó cũng là bạc ăn cắp của chủ hiệu, của thiên giả địa.
- Hay là ra Hàng Đào lột cái váy lĩnh của con mẹ Kẻ Bưởi, bọn lái hàng tơ này hay về chợ sớm.
- Ha, ha!
Ở đình Hàng Hòm thì cánh trọ cũng ăn nói bặm trợn chẳng kém, nhưng đám lam lũ này chắc có kém ngang tàng. Quanh quẩn, mấy người khố đuôi lươn đi cắt cỏ voi ngựa bán chợ Hàng cỏ. Đến mùa vụ, người Cầu Nôm lên quét mực bản khắc. Dân làng Dũi làm ở Hàng Tiện. Người Giới Tế trọ ở Hàng Mành, uống rượu ngữ, cơm bát úp ăn với cà chan nước lã. Ngay bọn ở Hàng Đồng Giọt đập cái mâm đồng, cái âu trầu hay Hàng Hòm thì lỏng chỏng mấy chiếc tráp sơn then, cái hòm gỗ cánh gián nhợt như áo quan.
Đốt cả phố Hàng Tiện, Hàng Hòm cũng chỉ ra tro mấy thứ thổ tả ấy với cái bàn tiện. Còn người ngủ đường ngủ chợ có cái tràng, cái đục, cái con lăn, con cóc quăng đan mành mành thì vứt ra đấy, chó cũng chẳng buồn tha. Cho nên êm nhất là ngã vào đình Hàng Hòm, phải hơn bên đình Cổ Lương hay Hàng Bạc - chỉ có mấy chú phó cối cả năm ra Kẻ Chợ đôi buổi không biết mới chui vào những nơi ấy.
Người hai bên sông vào phường phố cũng là trợ thời không thành nghề như thợ bạc, thợ đồng giọt, mà là người ở đợ, làm mướn, người bán dầu thắp. Gánh đôi thùng tre ghép sơn cánh gián, đựng dầu trẩu, dầu sở tùy mùa dầu trên ngược về, đầu mẩu đòn gánh gác một sải dầu lạc. Áp tết mới nhiều người mua dầu lạc các nhà khá giả thì quanh năm thắp dầu lạc, nhà nghèo chỉ trữ hũ dầu lạc, đèn thờ những ngày giỗ chạp, tết nhất tim bấc đèn tinh khiết không bụi khói. Những người bán dầu không điêu toa pha phách đều có thể mua quanh năm. Các nhà lấy dầu quen, mua ngữ tháng bốn phiên tơ ngày một, ngày sáu. Trắt bán dầu ngắn vốn, lại đi có chừng, chỉ gặp khách mua hóng.
Ngày nào Trắt cũng đi. Thường thì ngại ở lang chạ, chiều đến nhiều khi sang sông về nhà, gà gáy lại vào. Nhưng bây giờ gánh dầu đi có ý khác, tối tối rúc ráy vào ghé lưng nhờ các cửa đình, cửa đền. Mỗi ngày, dạo khắp xó, nhưng thế nào cũng qua nhà đội Quang vài lần. Cổng đóng kín, trên vòm có chòi canh như dinh quan, người lính đứng to hó nhìn xuống. Trắt rảo bước đi thẳng, thế là chưa được cái gì khác, vẫn như thế.
Mấy hôm ấy, trời lại sụt sùi mưa. Đã sang tháng bảy, mưa ngâu sớm ướt sũng đất. Cả một vùng xám mờ như trời buông xuống những cái màn cửa nhuộm chàm che khuất chiếc bè gỗ, bè nứa, các ông lái đường ngược đương nằm hút thuốc phiện. Tự dưng, đến người cũng bực bội, bứt rứt. Chặp tối, Trắt đỗ gánh cuối phố Hàng Gai, vào mua nắm cơm muối vừng, ăn xong ra vại chiêu ngụm nước lã rồi xuống đình Hàng Hòm. Tối rồi mà còn vắng, mọi khi, vào giờ này, đám thợ tiện, thợ xén sách, thợ khắc ván các phường quanh quẩn đã tụ tập. Biết thế nào, vì trời mưa, vì nhiều việc phải làm đêm, hay đã hết lứ hàng, người ta về quê cả.
Trắt để ý, mà không quan tâm. Trắt đặt hai thùng dầu vào góc khuất trong lưng cột rồi ngồi xuống lấp sau bậc gạch, cho khỏi chói mắt, ngạt mũi vì bấc đèn dầu sở khét lẹt ở hàng nước phía ngoài tạt gió vào, khói tuôn cuồn cuộn.
Nhưng rồi cũng chẳng chợp mắt ngay được. Trắt vẩn vơ nhìn sang ngôi hàng nước dần dần đã có người đến xúm xít ngồi kín trên những nửa mặt cây vầu đặt quanh chõng hàng. Hàng nước chè tươi đình Hàng Hòm nước ngon đã được tiếng. Thấy bảo lão quán này kỹ tính. Chè tươi thì thửa chè đồi trong Chương Mỹ đem ra. Nước đun, mua nước giếng đất gánh tận chùa Bà Ngô cạnh Giám. Bát nước múc ra xanh óng, uống đến bỏng môi, nhưng đậm giọng, nhiều người đã nghiện chè tươi quán đình Hàng Hòm. Người uống quen là phải, bởi chưng cũng không phải lão quán chỉ bán nước chè xanh. Cái đóm nỏ, cái điếu cày lúc nào hút cũng giòn tanh tách thì chẳng kể, và cũng chẳng có là bao mấy thứ khác, nhưng sau lưng lão xếp một dãy vò rượu Kẻ Mơ. Cái Kẻ Mơ chính tông mới ngọt giọng làm sao. Uống suông cũng được vài chén, khách ngổ ngáo thì cứ vài hơi đã hết be.
Những khuôn mặt vuông vức nhấp nhoáng quanh ánh đèn, trông dữ như mặt thằng quỷ ở bên vạc dầu chỗ cảnh thiên đường địa ngục trên chùa. Họ đương rượu. Xem ra không phải mấy cánh thợ mọi khi. Có người vắt vẻo trên đầu mảnh vải thâm gấp đuôi khăn tai chó, như lái bè lái buôn trâu dưới bến lên hay ở trong cửa rừng ra.
Tường vách, kèo cột cửa đình nhem nhuốc ám khói bếp nấu nước, khói thuốc lào, hơi người, đã lâu năm két lại lẫn màu nâu sổng của những khách ngồi quanh, mọi thứ đều đen nhẻm như trong lòng chảo.
Những câu chuyện cũng lạ tai. Họ cãi nhau về cách bẫy chó, đánh chó, lừa chó.
- Quả mướp, quả nướng thui chín nục quăng ra, thằng chó tham ăn càng hăng càng chết. Thấy khói bốc tưởng miếng đớp được, ngoặp một cái, thế là hai cái hàm dính lại, rụng ngay hết răng. Chỉ còn nằm mọp, rên ư ử.
- Không xong. Có thù con chó thì làm vậy thôi. Chứ cũng không lọt vào nổi đâu.
- Sao không xong?
- Nó không há được mõm, thì nó cũng rên, cũng rú váng lên chứ. Thế là nó đánh trống ngũ liên báo cướp được rồi.
- Này bảo cho mà sáng mắt ra. Thằng kẻ trộm không đánh bả, không ném mướp nướng lừa chó bao giờ. Trò trẻ ranh!
- Mắt tao đã thấy mà.
- Cách vào này thì thần tình lắm. Có ghét con chó thì lúc ra, ném lại ít bả. Thế thôi.
- Ha! Ha!
- Tay này vẫn làm thế đấy.
Trắt đoán bọn này không đầu trộm thì đuôi cướp. Vào giữa phường sầm uất thì làm trộm, ra đầu ô vắng vẻ thì thành kẻ cướp. Tối đến, tù và, ốc, trống ngũ liên loạn xạ. Khắp các phố, những tiếng khiếp đảm hú vào các đầu hồi, các cây bương nứt ống, những ngọn cau tùm hum như có người ngồi rình trên ấy. Nơi nơi im thin thít đợi cơn hoạn nạn đến. Nhà phải người ném mồi lửa. Người bị chém sã vai... Tất cả nem nép trong bóng đêm, mưa ồ ạt rơi trong cơn giông, đêm nay cũng thế, trông ra trời đất thảm xịt như ai bịt mắt. Cái đèn dầu chẩu trước điếm canh đầu phường đứa nào đập vỡ đã tắt ngóm từ bao giờ để dễ bề khua khoắng. Trắt đoán bọn này tụ bạ rồi đi cướp, hay xé lẻ ra đi thón từng nhà. Bọn này đây. Trắt nghĩ ra một việc, việc khác, việc đương cần.
Trắt lò dò đến ngồi cạnh. Một người quát vào mặt Trắt :
- Thằng tuần phường Hàng Hòm à?
- Trói cổ thằng này, tội vạ đâu tao chịu.
- Không có thì chốc nữa nó cũng gông ta lại. Đem chọc tiết thằng này để tế cờ, anh em ơi!
Trắt vội nói to :
- Em là thằng bán dầu, các liền anh cứ hỏi ông chủ quán nước thì biết.
Một người trợn mắt hất hàm ý hỏi chủ quán. Nhưng ông lão không nói gì.
- Thằng bợm mắt lấm lét thế kia mà đi bán dầu a?
- Đêm nó đào tường khoét ngạch, ngày nó bán dầu.
- Không, nó là thằng tuần đi rình mò...
Trắt vào xách hai thùng dầu lại cho mọi người nhìn. Rồi kể lể :
- Nhà em ở bên kia sông, mấy hôm nay hàng họ ế ẩm quá. Ngủ đây cho gần, mai có buổi chợ cầu Đông.
- Ngày đi bán dầu, tối đi ăn trộm cũng thế. Nhập bọn với chúng tớ được.
- Em không có tài, chứ em cũng thèm.
- Tài tải tài tai, tài tai cái tai bị cắt ấy mà.
- Ngồi xuống đây làm một chén. Hay là mày uống chỗ dầu ế no say rồi.
Một con xọt xành bám trên hốc cột gõ mõ cành cạch. Con xọt xành kêu hay con mối chép miệng đớp muỗi, con dế tỉ tê rên rỉ thâu đêm, cũng thế - chẳng trông thấy con xọt xành đâu nhưng tiếng xọt xành lại thành câu ví von. Mọi người cười khục khục cùng bật một nhịp :
- Xọt xành là anh kẻ trộm! Xọt xành là anh thằng kẻ trộm!
- Thằng xọt xành nhầm nhà rồi. Chúng anh đây đi ăn trộm mà có đứa nào dám đến đây khiêng các hũ rượu của ông quán đi đâu!
Ông hàng nước cắm cúi bê hũ rượu chiết ra từng be, từng ống nứa rồi ra ngửa mặt cười khà. Đích thị! Đích thị! Mọi chuyện lại râm ran. Trắt đã rõ, đám kẻ trộm này chợt ngồi đây, chốc lại biến đi.
Một người nói :
- Này các đằng ấy, rượu vào rồi ra ngồi phơi sương, hơi người hả đi nhanh lắm. Mới đêm qua thôi, uống đến nửa đêm ở đây thì tớ đứng dậy, ra bãi tha ma nằm ngủ trên một cái mả, đến canh một thì các cụ dưới mồ lên vành mắt dựng tớ dậy, người chết đánh thức người sống. Tớ đi vào chui cổng chốt phường Hàng Đào đằng kia kìa rồi nậy cửa hiệu cái nhà có tiếng nanh ác ấy, tớ khuân một ôm lụa lĩnh như khiêng cây rơm trên lưng, vừa đi vừa thở phì phì, vẫn còn say, thế mà chẳng có một tiếng chó cắn. Chó đuổi theo chỉ ngửi ngửi, hơi người lẫn với hơi sương rồi mà.
- Bây giờ mới biết á? Cụ tổ nghề đã dạy sách ấy từ đời nam nứ kia! Cái rượu nó bốc hơi người đi, không phải cái xương cốt gì đâu.
Trắt tưởng tượng ra chốc nữa ở đây rồi họ phắt lên các nóc nhà, bờ tường, xuống ao chuôm, cả rừng chông trà, hàng chục ròi cổng chẳng là gì cả. Tiếng tù và, tiếng ngũ liên đêm nào cũng hốt hoảng thấp thỏm thì biết được trong thành, ngoài cửa ô nhộn nhạo trộm cướp thế nào.
Trắt mon men :
- Nghe các ông anh nói em sướng cả bụng.
- Sướng là làm sao?
- Sướng là cái nỗi những đứa nứt đố nổ vách lúc nào cũng bở vía, tóc gáy cứ rợn lên thế thì đến rụng trọc đầu mất.
- Ừ, nghe mày nịnh thế tớ cũng nở hai lỗ mũi đấy.
- Đàn anh cho em theo với.
Một người cười ha hả :
- Đội Quang mai về đấy. Rồi mày đi báo đội Quang chém chúng ông, đầu chúng ông là củ chuối để mày xách đi lĩnh thưởng a?
Trắt rụi mắt :
- Không, em nói thật.
Một người khác trầm ngâm :
- Nhưng mà chúng tao không phải kẻ trộm kẻ cướp đâu.
Trắt ngần ngừ.
- Nói thực, em theo học các ông anh.
- Học cái gì?
- Tay không mà đâu cũng vào lọt, như lúc nãy chư ông nói.
- Được rồi, tối nay tao uống mày chi tiền rồi tối mai tao cho đi theo.
- Vâng ạ.
Đến lúc Trắt gà gà mắt tựa vào tường thì các tay anh chị nọ tản mát đi lúc nào không biết. Trong tiếng mưa khuya, câu chuyện phảng phất như ngủ mê.
Hôm sau, Trắt lại quảy gánh dầu đi qua cổng nhà đội Quang có đến mấy lần. Nhà đội Quang ở gần đầu ô Chợ Dừa. Một dinh cơ của một quan lớn mới được bổ vào Kinh để lại. Đội Quang chuyển trên Sơn xuống, thấy cơ ngơi khang trang thì ông đội mới có công to cử vừa xin lên trên, vừa ở luôn. Thế lực đội Quang dấy lên, mỗi lúc một hống hách, quan dạng. Xa trông dưới những cây cau, mái nhà ngói bát vần, giàn trầu không xanh thẫm leo phủ bên bể nước mưa trước hiên. Ra ngoài phường, các dinh thự nhà quan đều xum xuê nhà cửa vườn tược thế.
Nhà đội Quang cũng dinh cơ; lại là nơi xét xử giam cầm người, không biết trên huyện hay Bắc thành cho mở công đường hay cái lệ đội Quang ở trên Sơn vẫn tự tiện vậy, bây giờ được lên chức lãnh binh lại càng ghê. Có đủ lệ bộ như công đường quan án đầu tỉnh. Lính gác, lính tuần, lại ông lục, thầy cai, thầy thừa - chẳng rõ có thật các chức tước ấy không, những người có việc kêu cầu, kiện cáo thường quen xưng hô đội lên chức thầy, chức quan lớn, người ta càng khiếp đảm vì ở nhà đội Quang xử tội rồi giết người được cả: đánh đòn, bỏ rọ trôi sông, đâm chết tươi, đem chôn. Trong các hàng quán ở đất Kẻ Chợ, tuy đội Quang mới về, cũng chẳng phải quan nhất quan nhì hàng tỉnh nhưng người ta đã thì thào về cái tính cục cho toi mạng người không ghê tay của quan lãnh mới được thăng.
Trắt nhìn hàng rào những cây vông hoa đỏ như tiết, mà ngẫm nghĩ về câu chuyện trộm cướp tối hôm qua ở đình Hàng Hòm. Trắt tưởng tượng có một đêm Trắt ra nằm bãi tha ma một hai trống canh, nhạt hết hơi người rồi Trắt vào leo qua cái hàng rào ô rô, leo khéo thế nào để các chòi canh trên tường không biết, cả đàn mấy chục con chó săn lùng sục suốt đêm quanh tường không đánh hơi ra. Trắt lọt vào tận buồng đội Quang. Bấy giờ mới phải tính thế nào đây, cắt đầu cả con vợ nó, hay chỉ một mình thằng chồng. Thôi, tội ai người nấy chịu.
Trắt đương nghĩ như thế, nhưng đến lúc cảm thấy một bên vai nặng trĩu cái đòn gánh và đôi lúc gió thổi dạt làn nước mưa xuống cái lòng nón sụp trên mặt, như cả vòm trời xám xịt ụp xuống. Mới lại nhớ đương quảy dầu và xưa nay chưa biết trèo leo, nạy cửa, vượt mái nhà như kẻ trộm, kẻ cướp, làm sao chui qua, trèo qua được cái bờ rào ô rô rậm rịt rối lại xoay xở thế nào những cơ ngũ chỗ ăn chỗ ở ra sao trong ngôi nhà ngói mênh mông thế kia.
Nghĩ thế, Trắt xịu mặt. Nhưng một lúc, Trắt lại hy vọng, không biết hy vọng gì. Trắt quay lại, qua cổng nhà đội Quang lần nữa. Chặp tối, Trắt trở lại đình Hàng Hòm, đòn gánh trên vai như đêm qua. Về đây, Trắt lại có ý mong và hy vọng rành rõ.
Nhưng đêm tạnh ráo mà đến khuya cũng chẳng thấy bóng dáng người nào tối hôm qua. Có mấy đám, bọn thợ cối ở Thượng Thanh lờ vờ ra, đi cả ngày chẳng ai gọi tối lại về tá túc đây. Rồi vẫn thợ tiện Hàng Hòm, Hàng Tiện, thợ khắc Hàng Gai. Những bọn này vùi đầu vào đám xóc đĩa trong góc tường, thỉnh thoảng ra làm bát nước, bát rượu lảm nhảm khấn cho khỏi cơn khát nước, rồi lại nhảo vào đỏ đen.
Trắt hỏi lão quán :
- Đám hôm qua chẳng thấy tăm hơi nhỉ?
- Dào ôi, đã sang cả bên kia sông lại xuống ô Đồng Lầm, đi như ngựa, có khi gần sáng mới mò về. Có khi vắng cả tháng.
- Các anh ấy đi dắt đất?
- Hình như bên kia sông, tận trên bến Bỏi. Đi ăn cướp mà lại được tiếng tướng cướp. Đã nghe tiếng tướng cướp bến Bỏi bao giờ chưa?
Mấy đêm nữa cũng không thấy người nào đến.
Trắt chịu khó chờ, dẫu biết chim trời cá nước, khó lòng còn có khi gặp. Có đêm lại rả rích mưa, Trắt vẫn mò về Hàng Hòm, rồi ngày lại ngày, quảy hai thùng dầu qua các phố. Như thường lệ, đi đường nhà đội Quang, Trắt nhẩn nha, thong thả đếm từng bước.
Đến những cây vông trong bờ rào ô rô - cái vườn rộng thênh thang như vườn nhà chùa, rồi tới hai cột trụ cổng vào, những búi cỏ ấu lầy lội bùn cát pha. Cũng chẳng lạ, lối này ra đường thập đạo, người qua lại, quân trảy chẳng lúc nào ngớt, nếu lâu lâu không mưa thì những cây muỗm, cây đề, cây gạo ngoài ngã ba, bụi đường nhuộm đỏ xuộm cả gốc cây, cả vòm lá.
Đằng sau, tiếng vó ngựa lộp cộp. Nhìn lại, không phải, một người tráng đội nón chóp, giơ cành tre dứ lên đầu bốn con trâu chen nhau định bồn, miệng quát "họ... họ..." dồn cho trâu chững lại. Bùn nhóp nhép vết chân trâu, thảo nào bờ cỏ ven đường nhàu nát, ngả rạp thế. Nhưng hôm nay không phải ngày chợ. Mà trâu bò các làng đem vào bán chợ cũng không qua ngả này. Đàn trâu này mẫm mạp, béo nây tròn khoáy mông, dáng trâu vỗ béo, trâu thịt, không phải trâu cày. Lại nhà quan nào có tiệc trong thành...
Bốn con trâu bị quát "họ" loanh quanh dồn lại trước cổng nhà quan đội Quang. Người tráng đánh trâu kéo cái ốc đeo bên vai, nghiêng cổ, phổng má thổi tí... u... tu... tí... u..., mấy tiếng ngắn. Lính trên chòi chạy xuống, cũng vừa lúc người trong sân cầm cái chìa khóa tất tả chạy ra. Hai người cùng rầm rầm cong lưng đẩy cái cổng sang đôi bên. Phía đường lát gạch men quanh khoảng sân rộng liền tới những tòa ngang, dãy dọc, nhà lính tráng, nhà cối xay cối giã với kẻ ăn người ở cạnh nhà bếp chầu vào ngôi nhà trên, cơ ngơi nhà quan đại thần cũng còn thua, rõ như thế. Vì mấy đời trước, vua chúa đã vào trong Kinh, đất Kẻ Chợ chỉ còn là nơi đô hội, dẫu cho có quan tổng đốc Hà Nội đấy nhưng lâu đài, thành quách mọi thứ đểu hoang lạnh và luật pháp thì tờ lệnh cũng bằng mảnh giẻ, quyền vua phép nước đều lụi bại chẳng ra thế nào. Đâu đâu cũng vỡ đê vỡ đường, đến con châu chấu, con chuột, con cào cào cũng nổi lên thành giặc tụ hội hàng vạn hàng triệu con về phá tan cánh đồng hàng tỉnh. May ra các quan võ còn có quyển chứ văn quan chỉ biết ngậm cái bút lông mèo không há được miệng chẳng ra ngô khoai gì. Bởi vậy, chỉ mới ông lãnh, ông đội ở đâu thì dinh cơ đã ra trò. Lại hung tợn quyền sinh quyền sát như đội Quang thì trong thành ngoài cõi đều một phép, trông thấy thì cúi đầu, đi qua cổng phải bước nhanh.
Đàn trâu thịt được đánh vào trong cổng. Thế là nhà quan sắp có tiệc. Người qua đường chợt thấy thì đoán vậy, nhà quan lãnh mới, tân quan, tân chức phiên nào cũng có tiệc. Khi thì đàn trâu mộng, cùng các gánh cá chắm, cá chuối vừa đánh dưới hồ ao hay sông Cái lên được lần lượt quảy theo. Trắt phải đỗ gánh dầu đợi mấy con trâu vùng vằng quăng quả chịu qua cổng đã. Nhưng Trắt cũng không vội. Mà lại ra ý lân la đứng lại. Trông thấy con cá, chẳng hiểu cơn cớ sao, Trắt lại nghĩ thằng đội Quang ở trong kia cũng bằng con cá nằm trên thớt - quanh quẩn xó nhà thì khác nào trên thớt chốc nữa ông thò tay vào, cầm con dao hạ xuống chặt khúc. Có lẽ sự sốt ruột đã khiến Trắt nghĩ ra thế, như thật. Chứ đã được lần nào nhìn vào, đã biết đội Quang mặt ngang mũi dọc ra sao. Ngay phía trong cổng vừa mở, mới thoạt thấy lần đầu. Bọn kẻ trộm ở đình Hàng Hòm nói đúng, phải có người dắt đất, phải thông thuộc đường trong ngõ ngoài như nhà mình rồi mới hòng. Vậy thì ta chưa ra đâu vào đâu. Trắt lại dùng dắng ngẩn ngơ.
Đàn trâu đã được xua khuất vào vườn sau. Trắt gánh dầu men sang bên cổng, không để ý người lính canh trên chòi đang chăm chăm nhìn xuống. Một tiếng gọi bên trong lanh lảnh :
- Hàng dầu, này hàng dầu!
O một túp nhà tranh bên trái cổng có một người đàn bà bước ra. Rõ vẻ người nhà quan, váy lĩnh Bưởi đen nhánh, thắt lưng nhiễu tam giang, tay xách cái khóa đuôi chuột, rỉ sắt đen xỉn to bằng ống tay. Ai gọi hàng dầu? Người này ra khóa cổng mà. Nhưng người đàn bà ấy lại cất tiếng :
- Vào đây, vào đây mua vài cân dầu. Quảy hẳn vào trong này để khóa cổng.
Không phải người đàn bà ấy khóa hai cánh cổng lim nặng như hai gọng cùm. Một người búi tóc, chít chăn lượt, dáng ông lại, ông nho trong sân tất tả đi ra, cầm lấy khóa đem móc vào lỗ cổng giữa cái rõi sắt rồi cả hai người lính trên chòi xuống đẩy. Cánh cửa cót két nặng nể đóng sập lại. Trắt đã vào trong cổng rồi, ngẩn ngơ toan hỏi cửa khóa thế thì tôi ra làm sao. Nhưng lại nhớ đây tà cửa quan, mà người ta gọi mua dầu, bỗng dưng chợt thấy được may mắn quá.
Trắt gánh dầu theo người đàn bà. Người ấy không còn trẻ, nhưng cũng chưa hẳn đã già. Da bánh mật, đuôi mắt rạn chân chim nhăn nheo, vẻ ủ ê lại như cau có rõ người hay bẳn tính, hấp tấp.
Người đàn bà bảo cái bác chít khăn lượt :
- Bảo trong ấy có nhà đứa nào hết dầu thì ra mà đong.
Người chít khăn, áo dài đã đi vào sân. Một lúc cũng chẳng thấy ai ra. Trắt đỗ thùng dầu, ngồi lên cái đòn gánh.
Rồi Trắt tự nhiên hỏi như đùa :
- Nhà quan tuyển võ sanh đàn bà gác cổng?
- Cái nhà anh này ăn nói chớt nhả! Liệu giữ cái mồm đấy. Ai lính tráng gì với nhà các người.
Nói như mắng ấy nhưng mặt lại tươi tỉnh, rồi tủm tỉm. Trắt cảm thấy dễ làm quen.
- Thấy nhà bác giống cái chòi gác, mà lại ở cạnh cổng.
Người đàn bà chép miệng, mặt lại ỉu ngay.
- Ừ, cũng là chòi gác thôi.
- Để tôi về bảo vợ con ra đây xin tuyển lính, ở dưới quê đương đói, nhờ bác giúp cho. Trần đời chưa trông thấy lính đàn bà như dinh quan nhớn đây.
Hình như người đàn bà ấy gọi Trắt vào để nói chuyện dông dài vậy, không thấy hỏi đến dầu. Hai người đàn bà khiêng ra cái nồi đồng ba mươi, lồng quai vào chiếc đòn ống.
Trắt hỏi :
- Đựng dầu bằng nồi đồng à?
- Còn bao nhiêu dầu đong hết. Nhà cỏ việc phải phiên phiến lên.
- À...
Bấy giờ hai người vợ lính cúi đầu.
- Chào bà Tư. Bà cũng đong dầu ạ?
- Tôi gọi hàng dầu cho các người đấy. Trông từ sáng mới thấy. Đỡ phải đi đong chợ.
- Đội ơn bà gọi giúp cho.
Những người đàn bà mặc cả nì nèo. Nhưng Trắt cũng chẳng đong bán diết dóng, cho nên rồi ngã giá được ngay. Lại cố ý để hời cho người nhà được vài tiền ăn bớt, tôi tớ nhà quan đều đã thạo mua bán thế. Chỉ để lại cho bà Tư mấy gáo, cả hai thùng dầu đổ vào cái nồi ba mươi còn sóng óc ách, chưa đầy được cắn mép nồi. Mấy khi đã gặp may nhường này.
Hai người tong tả khiêng nồi dầu vào. Một mình, Trắt lúng túng :
- Phúc đức quá, bà giúp cho đi chợ được thuận mua vừa bán ngay. Mà lúc nãy tôi dám hỗn, khí không phải, bà nhớn xóa tội, bỏ quá cho.
Người đàn bà ngẩng nhìn Trắt :
- Chưa rằm tháng bảy, đâu mà xá tội vong nhân sớm thế.
- Bà cứ nói giỡn!
- Anh ở đâu vào bán dầu?
- Nhà cháu ngoài đầu ô.
- Hôm nào cũng đi à?
- Cũng buổi đực buổi cái.
- Đực cái là thế nào?
- Cháu làm ruộng, phải bớt việc nhà mới đi chợ được.
- Nói toạc thế cho dễ nghe, lại đực vởi cái, rõ con hươu con vượn.
Cứ sa sả, nhưng lại rõ là người vui chuyện. Những câu lọt tai làm cho người ta gần gũi. Trắt cảm thấy bớt e dè.
- Cháu hỏi khi không phải, bà Tư là thế nào?
- Tư là tư, một hai ba bốn chứ tư gì nữa, năm à? Năm, sáu, bảy đến mười mươi người ta cũng không thiếu.
Trắt không hiểu thế nào.
- Bà bỏ lỗi cho.
Rồi Trắt im. Người đàn bà lại nói, với người đàn ông chất phác, nhưng giọng chua chát, kể lể :
-Chẳng giấu chú, tôi là con hầu thứ tư trong nhà, nhưng quan nhà này có đến đứa hầu thứ mười lăm, thứ hai mươi kia. Chật chội quá, tôi phải ra ở riêng cho mát mẻ.
Trắt nghe biết vậy, không nghĩ là câu nói xót xa của người đàn bà bị hắt hủi trong cảnh năm thê bảy thiếp.
- Bà ở ngoài này lâu chưa?
- Lâu rồi.
- Quê bà ở đâu?
Người đàn bà nghe hỏi, hàng nước mắt tràn ra mí, đong lại rồi chảy xuống hai bên má đã rám. Không nói được nữa, mặc nước mắt cứ ròng ròng.
Một lát mới thở dài :
- Đừng gọi tôi bằng bà. Tôi không phải là bà. Tôi cũng chưa đến tuổi ấy. Nghĩ lắm, cay đắng lắm thì nó rộc người ra như thế này.
Ngoài cổng, tiếng ốc rống lên, xói vào tai, như tiếng ốc rúc cháy nhà. Trắt nhớn nhác nhìn ra.
- Chú cứ ngồi, chẳng ai vào đây mà ngại. Tôi gọi nó đem khóa ra. Lại của nhà bếp về đây mà. Không sợ, mặc kệ các thằng tráng xuống đẩy cổng.
Người đàn bà thoắt vào sân trong. Trắt nhác nhìn nhanh mắt một lượt. Ngôi nhà một gian, hai trái, vách dựng đất trấu. Đằng sau một chuồng gà. Con gà mái đương túc túc gọi con. Vại nước có cái mo buộc vào gốc thân cây chuối, vắng lạnh, gọn như nếp nhà của người già ở một mình. Thế là được biết chị ta là vợ thứ tư đội Quang. Nhưng tội tình gì mà phải ra ở đây. Trắt tặc lưỡi: "Những nhà giàu, nhà quan, vợ nhiều như lợn con. Nếu không phải vì thằng chồng rẫy thì cả lũ ở với nhau cũng đủ chết vì nói cười thơn thớt mà bụng bổ dao găm, những toan giết nhau không tanh dao".
Lại mấy người quảy vào mấy cái bu đại. Toàn là gà Mía trên Sơn đưa về. Những chiếc đòn càn thọc qua nan miệng bu, con gà trống lông mã đỏ tía thò cổ kêu hộc hộc, như nỗi khó nhọc đường xa.
Trắt hỏi :
- Nhà có tiệc à?
- Cả tỉnh này đồn mà anh không biết sao?
Lúc nãy là chú em, bây giờ gọi anh, người đàn bà cứ nói, tình cờ như không để ý.
- Tôi chẳng biết gì cả.
- Nhà làm tiệc khao.
- Tiệc tùng nhà quan thì như cơm bữa ấy mà!
- Ông đội Quang cứ mỗi trận đi đâm chém về lại mở tiệc. Nghe nói dạo trước cái trận trên Mường được to lắm, về đã khao ngay ở Sơn, xuống đây lại tiệc, lại tiệc, cơ mà cũng được thăng chức nữa kia.
- Chắc là lên quan lãnh.
Cô Tư chép miệng :
- Nào tôi biết được?
Trắt rùng mình, nóng bừng mặt tai nghe những tiếng "đâm chém", "trên Mường" mà cô Tư vừa nói. Ngoài đường lại inh ỏi tiếng ốc. Cô Tư lại lụi hụi chạy vào sân trong, vạt áo đổi vai tứ thân nâu non lất phất ra sau, chỉ kịp vắt lên một bên vai trần. Trắt nhìn theo, nuốt nước bọt.
Lại đến bọn buôn gạo. Gạo mới ở thuyền lên, hầu như gạo cả dãy chợ Bạch Mã ngoài cầu Đông quảy vào. Thấy tíu tít đông người lại lạ mắt, Trắt ỷ tứ vào đứng sau tấm mành mành nhìn ra đám hàng gạo quảy những chiếc bị cói đại đậy vỉ buồm, những đôi thúng to, nặng trĩu đòn gánh. Nhìn đám gánh gạo, Trắt nghĩ: cô vợ tư đội Quang đương thù cả lũ chúng nó, có khi có thể tin được. Cứ một việc lọt được vào đây ngồi từ bấy tới giờ, đã chẳng ngờ.
Cô Tư vào. Trong nhà sau bức mành, nồng mùi hói dầu mỡ và hơi người, cô quát khẽ :
- Chết chửa, đứng thò đầu đòn gánh ra ngoài mành mành thế, khác nào nhà này chứa tù xổng. Ngồi hẳn vào trong kia nào!
Trắt thật thà :
- Tôi là thằng bán dầu, có trộm cắp gì đâu.
- Nhỡ cái, có đứa trông thấy thì tôi phải vạ.
Trắt nói :
- Thằng lính trên cổng để người vào mới phải tội.
Rồi Trắt dịu giọng :
- Cô cho tôi đứng xem người ta một mảy. Mấy khi đã được ở cửa nhà quan.
- Vào trong khuất kia mà nghển cổ lên. Không phải dọa. Đây là cửa quan, đừng giỡn mà chết!
- Tôi, tôi...
- Bọn gánh gạo nữa lại vào mà anh vẫn luẩn quẩn đây. Thằng lính trên cổng đã trông thấy anh ra đâu. Nó tinh ma lắm đấy. Chết thôi...
Trắt chắp tay :
- Chẳng phải giấu ai, tôi có việc...
- Ở đây không có ai là ai.
- Tôi xin...
- Lại tiếng chân trâu, chân ngựa nhốn nháo ngoài đường kìa.
- Tôi thưa với cô Tư.
Người đàn bà ngơ ngác nhìn Trắt.
- Anh nói thế nào, tôi nghe chưa ra.
- Chuyện dài, không nói hết ngay được.
Cô Tư ghé gần lại :
- Bảo thật, ra ngay, không có không xong. Đấy lại tiếng ốc, thằng tráng lại xộc xuống kia. Có chuyện gì phiên sau đến.
- Phiên sau là bao giờ?
- Phiên chợ ngoài ô, ngày tám.
- Lại vào đây à?
- Ừ.
Trắt còn ngẩn ngơ vì được cái hẹn đột ngột, người đàn bà như đã sắp sẵn câu nói :
- Từ nãy, đông người ra vào, thằng tráng khó nhớ được anh đã ra chưa, nhưng anh cứ đi đằng cổng cho nó trông thấy hẳn hoi. Phía sau bụi chuối có cây tre bắc qua hào, ngoài ấy có cái chỗ dưới bụi ô rô, cày cáo vân chui. Phiên chợ sau chịu khó chui vào đằng ấy, đừng để ai trông thấy. Nhớ chưa?
- Nhớ!
- Phiên chợ sau, buổi trưa, bây giờ khách đương đông. Thấy người thì nép xuống đám cỏ lau chớ ngẩng đầu lên, nó chém đứt cổ đấy. Rồi lên đây.
- Vâng ạ.
Lâu nữa, Trắt nhìn cô Tư, lại thấy không hiểu. Nét ủ ê lúc nãy bây giờ thân mật tươi ra, nói vẻ săn sóc, dặn dò, như với người trong nhà.
Anh hàng dầu đã ra ngoài trước cửa. Cô Tư lại tất tả vào sân trong rồi ra cùng người nhà áo the, khăn lượt, cầm cái chìa khóa đuôi chuột.
Cô Tư nói to với Trắt, với bọn lính :
- Tiện cổng mở thì ra đi. Nó đợi ra từ nãy, tôi không dám tần phiền các ông.
Rồi lại ghé vào tai Trắt :
- Lần sau đi chân tay không, đừng rước hai cái thùng của nợ ấy đến nhẻ...
Đứng với Trắt, đợi mở khóa rồi hai người tráng khom lưng đẩy cánh cổng, cô Tư cứ chuyện bâng quơ với mọi người, cô Tứ bẻo lẻo mồm miệng, cứng tuổi rồi mà xưa nay vẫn bẻm chuyện.
- Chú hàng dầu sướng nhẻ, chưa đứng bóng mà đã bán sạch một lèo cả hai thùng. Sớm nay ra ngõ gặp giai.
Trắt nghĩ, mà không dám đối đáp "Gặp gái thôi, nhưng mà được cái may".
Tối hôm ấy, rồi quanh quẩn, Trắt lại lần về Hàng Hòm. Ngồi nín lặng, vẫn nghĩ về lúc sáng vào được trong cổng nhà đội Quang, được chuyện với người vợ lẽ chắc là bị đánh đuổi, hắt hủi ra đấy, lại được cái hẹn. Trắt cứ ngỡ ngàng không thể nghĩ ra trước được. Thế thì những ông đã ngồi đây có thể giúp một tay. Lúc thì bốc lên, nhưng rồi nghĩ lại, phải có cách rõ ràng. Cách thế nào thì cũng phải trèo tường lên dỡ ngói.
Nhưng không thấy ai trở lại. Mấy hôm nay vẫn chỉ đông đám thợ cối, thợ khắc, thợ thuộc da bò da trâu cho các nhà chủ ở Hà Trung, ở Hàng Da. Mãi quá nửa đêm mới thấy một người lò dò vào. Trắt nhận ra cái dáng cao lớn, cằm bạnh, cẳng chân dài như những người quen sông nước, chèo lái cả đời, vai ngực vạm vỡ hơn đôi bắp chân. Ngoài trời vẫn mưa sập sùi. Bước vào trong mái hiên, người ấy nhấc chiếc áo tơi lá sột soạt giống con gà đội mưa chạy vào chỗ ráo, rũ một cái. Nước bắn cả vào đám đương nằm ngủ sau cái giại đầu hiên, mà cứ làm như không, bọn kia cũng ngủ say, không biết.
Vừa vào, đã thì thào với lão quán. Trắt ngồi ngay đấy, nghe rõ, nhưng người kia cứ nói chẳng để ý, như người bên cạnh đã là chỗ quen biết.
- Khuya một mảy, tôi đem đến.
- Cái gì đã?
Khách cười hô hố.
- Của giời cho mà lại biết trước hả?
Lão quán gật gật.
- Cũng phải biết chứ. Nhỡ đem cái đầu lâu về thì để vào đâu, thối hoăng lên.
- Không, không. Gửi cái mới.
- Nói đùa vậy, cái mới hay cái sỏ người sỏ lợn cũng được.
Người ấy đứng dậy, toan đi. Trắt giơ chén.
- Ông anh cạn với em một chén cho ấm bụng. Mưa gió thế này.
Người nọ cúi nhìn Trắt rồi cười khà khà.
- À, chú mày, thằng lái dầu! Xem ra chú mày cũng nhớ bọn tớ đấy nhỉ. Nhưng mà tao cũng hỏi lại, mày là trương phiên khán thủ hay thủ túc lạnh Quang đấy? Khai thực ra, không thì ông xiên cho một nhát ngay.
Lão chủ quán nói :
- Đã bảo rồi, người tử tế mà. Chú ấy mong các ông đã mấy hôm.
Trắt nói :
- Ông anh cho đàn em theo với.
- Chú mày túng đói hay có thù ai?
- Thằng đội Quang...
- Đội Quang mới ở Sơn về được thăng chánh phó lãnh binh ấy a?
- Chính nó.
- Tao phải hỏi lại, mày đi rửa thù hay mày muốn vào ăn trộm nhà nó?
- Em trả thù.
- Cái thằng đội Quang ấy thì cả thiên hạ Sơn Tây, Kẻ Chợ này thù nó. Khéo đến lúc mày lọt được vào nhà nó thì đã có đứa chặt mất đầu nó rồi.
- Em đã vào được nhà nó.
- Có đứa dắt mối a?
Trắt lúng túng, ấp úng. Người kia nói luôn :
- Cái ả Tư phải không? Trông mặt chú mày tao đã biết bà già, gái tơ còn khối đứa chết mệt với chú này. Thằng bán dầu mà chấp chới đào hoa đấy! Đã thuổng cuốc với ả Tư được chưa?
- Không, em không phải lòng phải bề ai đâu, em còn cái thù phải...
- Bây giờ chú cần gì anh?
- Anh dạy em leo tường, moi vách, cậy cửa... Các ngón...
- Được, gì nữa?
- Thế thôi. Em nậy cửa vào buồng nó, em chặt đầu nó, xách ra.
- Không dễ như mày nói đâu.
- Phải học các anh đã. Rồi em vào nhà nó đương lúc có tiệc này.
- Ừ, nhưng mà mấy hôm, hôm nào nhà nó chả có tiệc.
- Em đã có...
- Cứ hú hí với ả Tư, vài đêm nằm đợi đấy, vội gì.
- Em đã có hẹn.
- Đã bảo có hẹn thế thì càng tốt.
- Lạy anh, em chỉ ước một điều.
- Được tao sẽ hộ mày.
Người ấy đi khỏi, ông lão quán nói :
- Hôm nọ tao đã kể. Trên bến Bỏi có một đám cướp tài lắm. Tiếng là đi ăn cướp nhưng không cướp của ai một đồng kẽm, một manh áo rách.
- Lạ nhỉ!
- Gầm giời có một đấy. Chỉ cướp cứu người giúp người.
- Thế lúc nãy bác ấy bảo xồi đem đến gửi...
- À, khi thì gửi tin, khi thì gửi người trọ.
- Chắc bác ấy là người cánh cướp trên bến Bỏi?
- Biết được!
Trắt đã biết thêm một tin lạ. Ngay từ lúc ấy, Trắt đã phấn chấn, quên cả chuyện về bàn với Cõi. Không, Trắt không quên, mà Trắt tưởng đến một sáng sớm kia, Trắt qua đò về đến nhà Cõi, Trắt cởi cái tay nải nâu, Trắt ném ra cái đầu lâu đội Quang. Trắt ngỡ như thật.
Trên tường thành Cửa Đông, Cửa Nam những tiếng trống điểm canh vọng lại. Các ông ăn sương, cái gì các ông cũng biết. Cả đến cái cô Tư hay giăng dện. Lai còn thế vậy. Các ông như thầy bói sáng, nói vanh vách. Có thể như thế, không thì sao chỉ chốc lát chẳng quen biết ra thế nào mà người ta đã đậm đà, đã cặn kẽ thế. Nhưng Trắt cũng chỉ thoáng nghĩ vậy. Từ giờ đến đầu phiên sau còn ối cái phải lo tính. Trước nhất được các ông dạy cho mấy miếng nhà nghề. Có lúc định gọi Cõi ra, nhưng lại thấy chưa đâu vào đâu, ra thêm bộn, mà không có cái ăn. Thế này là thấy mói rồi. Để xem đã.
Cái tiệc nhà ông đội Quang mừng được thăng chức chánh lãnh binh mà rộn cả đất Kẻ Chợ. Như làng vào đám, cỗ bàn linh đình trong nhà, rộn rã chèo hát ngoài sân suốt ngày đến đêm. Hai cánh cổng gỗ mở toang, không đóng im ỉm như mọi khi. Ngoài tường, đình liệu đốt suốt sáng. Dãy đèn dầu treo quanh các mái hiên thành một chuỗi sao sa. Người các phường quanh đấy nô nức vào xem hát, đông như hội.
Các quan đầu tỉnh, đầu hạt, dưới Đông lên, trên Đoài xuống khắp mặt, chốc chốc lại một đám khách mới. Ngựa đứng trong tàu chen chúc, đá nhau nhảy tung lên, phải buộc cả ra ngoài vườn. Những cái chân giá cáng đỡ võng nghỉ xếp chổng đống hai bên tường. Các quan lớn xuống võng, có ông áo thụng lam như vào buổi chầu. Những quan võ để râu ria ba chòm oai vệ áo gấm thắt lưng điều. Ngựa hay cáng tới, đoàn tùy tùng theo xách điếu, cầm hèo hoa, lại bưng những cái quả sơn son thếp vàng đựng đồ mừng - không phải buồng cau, trăm hồng Hạc, cam Canh, cam Cáo mà là những xếp bạc nén, vàng lá bọc giấy hồng điều trang kim phủ tấm nhung đỏ màu hoa hải đường, cả vàng bạc và nhung sắm ở các nhà khách buôn to bên Ô Quan Chưởng. Hai gia nhân chít khăn lượt, áo the, thắt lưng nhiễu bỏ giọt trịnh trọng bưng cái quả lên ngang vai, như khiêng long đình.
Tiếng pháo không lúc nào dứt. Thợ pháo làng Bình! Đà trong phủ Thanh Oai ra túc trực. Những cây pháo: dựng cao hơn ngọn cau, mỗi đêm pháo hoa đốt tua tủa ra ngũ sắc hoa cà hoa cải. Người ta đồn đến hội và những khao vọng ngoài kẻ Mọc kẻ Vẽ đất quan cũng chưa đâu vui bằng đám này.
Mọi toan tính của Trắt không kịp với những thuận; lợi đưa tới. Trắt chưa gặp lại được các ông ở đình Hàng Hòm, các ngón leo trèo, phá cổng, phá khóa chưa được biết thử. Ngày hẹn "phiên sau" với cô Tư đã sắp tới. Trắt lại nghĩ vơ vào. Xưa kia, Trắt cũng là tay quyền cước, tấn trung bình, chảo mã vững rồi phượng hoàng cũng ra miếng được như ai. Vả lại, hãy gặp cô Tư xem thế nào đã. Không do dự nữa. Có vào việc lại thấy nhiều cái đã định cứ phải xem lại từng ly từnq tý.
Đến đầu phiên chợ rồi, nhà đội Quang vẫn còn ăn uống, nhưng khách đã hết, chỉ còn những đám gia nhân và lính đánh cỗ vét. Bớt ồn ã nhiều, không như những hôm chính tiệc, tuy vậy người ra vào vẫn đông như đi xem chọi gà. Chỉ không còn pháo hoa Bình Đà, nhưng người hàng xứ vào sâu xem hát. Ba cánh phường Bắc được đón về thay nhau diễn ban ngày lại cả tối. Trà trộn vào lúc nào cũng được, nhưng Trắt cẩn thận làm như cô Tư đã dặn.
Trắt mặc cái áo chồi năm thân nhuộm cậy nâu sẫm, ống tay rộng như áo khách - lẫn với bọn tôi tớ nhà quan, lại như anh lái bè củ nâu, bè đó trên ngược mới về bến Bà Móc, lên dạo phường phố, chỗ nào thấy hay mắt cũng tạt vào. Trắt cốt mặc áo rộng để quấn được ngang lưng cái thừng đay, nhét được con dao bầu con dao bổ cau. Cứ sẵn sàng thế, nhỡ dùng đến đã sẵn. Thấy đông người, Trắt vừa lạ vừa mừng. Trắt đứng lại bên kia cổng, nhìn người ra vào.
Nhộn người thế này cũng tiện, cứ việc lũ lượt vào trong sân, tháo khoán rồi mà, chẳng nghe tiếng quát hỏi chửi bới nữa. Bọn lính tráng trèo cả lên chòi canh cổng đứng ngoảnh vào xem hát, mặc người chen nhau ở dưới. Một lúc, Trắt lững thững sang chỗ bờ ô rô như mọi người đi. Trắt để ý quả là chỗ bụi ô rô ấy, cày cáo chui đã thành một lỗ trống, thoạt trông tưởng tổ mối đùn đất đỏ.
Trông trước trông sau, Trắt cúi xuống, ôm hai tay giữ búi tóc, luồn thoắt qua bờ rào. Rồi trèo cái cầu noi lung lay vượt hào nước, Trắt lom khom qua bãi cỏ tranh, lên đứng núp vào lưng búi chuối, ngay cạnh cái chuồng gà. Đứng đấy nhìn ra mồn một rõ người đi bên ngoài. Trắt lé mắt vào nhà cô Tư, nhà buông cửa liếp trong, lại mành ngoài, tối như bưng. Cô ấy có trong nhà, hay đã vào ăn cỗ, hay ra sân xem phường chèo hát ban ngày vừa bắt đầu. Nhà đương nhộn nhịp thế này. Bất giác, Trắt thấy trợn. Tự dưng chui vào đây. Ngộ người ta bẫy mình thì sao?
Trắt ép mình đến cái vách bên cửa. Trắt mới giơ tay chưa kịp rờ vào, đã nghe tiếng hỏi ra :
- Đã đến à?
Rồi cánh cửa liếp kênh lên một bên.
- Vào, vào đi.
Trắt vừa bước qua ngưỡng cửa, chưa đứng vững, cô Tư đã kéo tay: "Dịch vào trong này, để buông cửa". Rồi cô Tư thở thở, hỏi hỏi dồn. Líu ríu như chim liếu điếu hót rì rầm to nhỏ lúc mặt trời vừa lặn, Trắt chưa nghe rành ra câu gì. Bàn tay cô Tư vuốt vào lưng áo Trắt. Một tiếng kêu khẽ :
- Ối, cái gì thế này?
- Chiếc thừng thôi mà.
- Cả con dao, hai con dao, giời ơi!
Trắt giữ hai tay người đàn bà nóng hổi, đầm mồ hôi, và nói thong thả: "Tôi đã bảo hôm nọ với cô Tư thầy tôi mất mạng để nó được lên quan to thế này, cho nên vào cái lúc nó sung sướng, nó phải đền mạng. Thầy tôi, cũng là giời có mắt. Cái may run rủi tôi được gặp cô, cũng là giời xui khiến vậy". Cô Tư rút tay trong tay Trắt ra. Những tơ tưởng vẩn vơ lúc nãy của cô Tư đã tiêu tan cả. Chỉ còn vang lên cái câu Trắt vừa nói, và những con dao, cái cuộn thừng thế này... Trong bóng tối gian nhà mờ mờ, người đàn bà đột nhiên ngồi gục đầu. Chốc lại ngửng mặt, không biết cô Tư khóc hay đương nhìn bóng Trắt. Những câu Trắt nói mỗi lúc một rợn.
- Tôi sẽ cắt đầu nó đem đi. Cho tôi cái tay nải...
- Anh ạ.
- Chỉ cho tôi biết hôm nay nó nằm buồng nào.
- Không vội được. Vội cũng không xong đâu. Trong nhà bây giờ đang bề bộn, mà cái thằng già ấy hay đa nghi, hay dáo dở, nó lắm chỗ ngủ lắm, mười mấy con đĩ mỗi con một buồng, cả một dãy buồng, phải lần khéo mới ra.
Trắt đã nổi nóng, quên cả những ý định lúc trước khi vào đây, hãy dò la xem sao. Trắt nói rít trong hàm răng :
- Để hôm khác a? Thế thì phí công quá.
- Không phải để hôm khác.
Trắt hăm hở :
- Mình bảo thế nào?
- Tôi đã trữ thức ăn đây, đợi đêm. Đến lúc ngoài sân tan hát tối thôi. Người xem về hết, trong nhà chè chén xong, lại như mọi hôm, chúng nó lăn ra ngủ như chết. Bấy giờ sẽ vào lần các cửa buồng. Không trông thấy nó vào, nhưng tôi đã biết cái lối, cái lệ nó đóng cửa buồng, đoán thì được.
- Cô đưa tôi vào à?
- Vâng.
- Cô Tư, cô Tư, tôi ơn...
Trên phản, cô Tư đã bày ra đĩa xôi, liễn thịt trâu tái bát tương gừng và một be rượu. Hai người ngồi ăn nhẩn nha, như trong buồng cô dâu chú rể. Trời đã tối lúc nào. Chợt, có tiếng gọi ngoài liếp :
- Bà Tư ơi, bà Tư!
"Chui xuống gầm giường nằm yên", cô Tư thì thào như thở. Một lát không thấy gọi nữa. Tiếng chân lạo xạo bước ra. Có lẽ lính tuần định vào nhờ cái lửa hút điếu thuốc. Hay là đứa nào ở đám chèo vừa tan ra định nhập nhoạng vào bâng quơ. Họ tưởng cô Tư đã ngủ hay đi xem hát chưa về.
Đợi. Kỳ lạ, oái oăm lúc ấy giữa hai người. Trong gian nhà tối om, thỉnh thoảng người xem hát tối đã ra về, ánh đuốc loang loáng qua khe vách. Tiếng nhị, tiếng mõ, tiếng trống cơm đôi lúc còn inh ỏi như lúc giáo đầu, cả phường hát vỡ nước... bung bung nhóc... bung nhóc... bung nhóc..., nhưng tiếng trống chầu thì rời rạc - hát chèo không phải hát tuồng, mà hát tuồng thì cũng thế, ông cai, ông chánh, các ông chức việc rượu vào rồi vênh váo chen nhau ra ngồi cầm chầu nhưng chỉ một lúc, tiếng tùng, tiếng cắc đã loạc choạc rồi im, các cụi say khướt, mắt dip ngồi ngật ngưỡng, hay là đã vứt dùi trống, chúi đầu loạng choạng đi đâu rồi.
Người đàn bà vẫn nắm chặt tay Trắt, nhưng hễ động đến con dao bầu thì lại run bần bật. Có một người đàn ông, một người đàn bà trong góc nhà. Ai cũng cứ chợt mơ màng lại chợt tỉnh rồi chỉ còn tựa vào nhau, đợi cái sắp đến cứ nghĩ như xa xôi nhưng rõ ràng là khuya nay. Chốc chốc, Trắt lại ngoái tay rút con dao, chùi lưỡi dao vào ống tay áo rồi nghiêng tai nghe ngóng ngoài vách. Người đàn bà ôm chặt người đàn ông, nhưng mặt cũng lắng ra ngoài, hơi người sực lên ở bàn tay, ở vai áo cạnh cuộn thừng quấn quanh bụng, cái lưỡi dao bầu lạnh ngắt. Tất cả, đợi.
Người đi xem vãn dần rồi vãn hẳn. Chừng như đã khuya. Ngoài kia, tiếng vó ngựa xa xa rồi dồn dập lướt qua. Ngựa chạy đêm về trạm vào phía Cửa Nam. Chẳng mấy lúc, trên tường, trong chòi canh đã đổ mõ nửa đêm. Bắt đầu lại thanh vắng như khuya mọi khi.
Cô Tư đứng dậy.
- Anh ngồi đây, để tôi lên nghe thế nào.
Một lát, người đàn bà đã rón rén về.
- Nó ngủ buồng con Mười.
Trắt nắm lại cái thừng đay rồi rút con dao ra cầm tay. Trắt bước theo cô Tư. Chẳng rõ lối trong nhà này bao giờ, nhưng xăm xăm vội vã, chỉ nghe nói "nó ngủ buồng con Mười" đã như trông thấy, biết rồi. Người đàn bà đành phải đi đằng sau, chốc lại kéo lưng áo Trắt.
Đầu tháng, lại ẩm ướt sương đêm, có lúc Trắt quay lại, chỉ thấy bóng cô Tư, Trắt yên chí như sắp đến nơi, lại cung cúc bước.
Ngôi nhà ngói bát vần hiện lên lù lù, hai người đi như chui vào bụng con voi, ngóc ngách, quanh quẩn. Đã hết cơn bối rối, cô Tư len lên trước Trắt. Bây giờ Trắt không hùng hục đi trước nữa. Đến một chỗ tối bưng, cô Tư cầm tay Trắt đặt vào cái cánh cửa. Trắt xòe tay lên mặt cánh cửa đã đóng cài then trong. Trắt đã săn cả -thói quen anh thợ đóng cối, cái lạt mà thiếu cũng đành ngồi chơi. Trắt moi trong cái cạp quần lá tọa ra một chiếc que đóm mỏng, lách vào khe, đẩy then.
Đâu đây, ngay sau nhà, những tiếng gà gáy canh một dồn dập. Đến lúc im, trống đầu canh trên chòi, người lính chợt tỉnh ngủ, cầm dùi đánh từng tiếng một, uể oải. Chiếc chốt cửa đã ngãng ra, kịch một cái xuống đất. Cửa mở hé, nhưng then rơi xuống khác nào sập cái bẫy chuột. Ở đâu bật ra tiếng quát giật giọng :
- Ai?
Tức khắc, tiếng mõ nổi khắp nơi. Những bó đuốc bập bung lên. Như đã rình sẵn, những đám người rùng rùng xô đến. Cả Trắt và cô Tư bị trói nghiến lại, không kịp quay lưng.
Lãnh Quang lè nhè ngái ngủ giọng rượu, ở trong buồng như bấy giờ mới thức giấc.
- Cái gì mà bay làm ầm nhà lên thế?
- Bẩm quan có động.
Lãnh Quang xộc ra, lưng thắt bó que, tay cầm con dao bảy sáng nhoáng. Dường như nó vẫn ngồi săn thế. Ánh lửa đuốc rừng rực. Cả lúc ngủ, quân ác này vẫn phòng xa thế hay nó vẫn giăng bẫy hàng đêm vậy. Trắt bị trói giật cánh khuỷu, cùng một dây với cô Tư bị đạp rụi xuống chân cột. Các tay súng, đại đao, đinh ba xỉa xuống, như rào chông sắt vây quanh.
Lãnh Quang làm như chưa trông thấy, dõng dạc hỏi :
- Sao, sao nào?
- Cái nhà Tư dắt đất cho thằng này nậy cửa.
- Cửa nào?
- Cửa buồng quan ạ. Mảnh tre nó lách gảy then ra, con nhặt được để làm chứng đây.
- Á!
Mấy người lính tâng công nhao nhao.
- Con đã nghi từ lúc tan hát cái nhà Tư ngoài ấy có khang khác, con gọi cửa thử.
- Bẩm quan con theo chúng nó từ ngoài sân.
Người trên chòi cổng lật ngửa dây trói rồi nói :
- À thằng bán dầu, cái thằng bán dầu hôm nọ đây. Thế có chết không!
Lãnh Quang nói thong thả :
- Hừ, con Tư rước giai vào ngủ rồi đem nhau đi giết tao. Thế thì tao tống cổ mày đi là phải. Đáng nhẽ phải chém đầu mày, tao chỉ đuổi mày ra ngoài ấy, tao cũng chưa đo hết được bụng dạ mày. Ha! Ha! Bay lấy rượu ra đây.
Một người nói :
- Nó giắt sẵn cuộn thừng trong lưng, nó còn đi ăn trộm nữa, thằng kẻ trộm này táo gan thật.
Trắt quát to :
- Tao không phải đứa trộm cướp. Tao...
Nếu không có lãnh Quang đứng đấy, nhiều người đã cười nhao nhao. Ai cũng há hoác miệng không thành tiếng. Nửa đêm nậy cửa, không trộm thì cướp, chứ còn không với có thế nào.
- Tao chỉ lấy cái đầu thằng đội [1] Quang!
- Á.
- Tao lấy cái đầu đội Quang đem lên Kệ tế thầy tao.
Lần này lãnh Quang "á" một tiếng như hét. Rồi rối rít quát :
- Bay! Bay đâu! Đem ra hai rọ, nhốt chúng nó vào rồi buộc đá ngay trước mặt tao. Khiêng đi trôi sông lập tức. Nhanh lên!
Lãnh Quang vừa sừng sộ lại vừa loạng quạng, liệu xiêu như hãi quá, tưởng tên cướp và con quỉ cái sắp dựng dứng lên, xông đến. Bấy giờ đã sang canh, nhưng còn mù mịt đêm dày. Trên không trung, những con vạc ăn đêm ở ngoài sông bay về ngang qua, buông từng tiếng rời rã. Xa xa, tiếng chim lợn sà xuống mặt nước tìm cá chết nổi đương bay lên, kêu éc éc rùng rợn báo điềm chết chóc đến nơi. Lãnh Quang vung con dao bảy như đỡ gạt người chém mình rồi cầm be lên tu ồng ộc, lại hét "Nhanh! Nhanh lên!" Bọn gia nhân đã vác tới hai cái rọ tre, ngã xuống, đẩy Trắt và cô Tư, mỗi người vào một rọ, trong bỏ sẵn mấy tảng đá rồi buộc lại.
- Vác đi, bỏ xuống sông Cái, đem ra tận giữa sông.
Nửa đêm, đoàn người khiêng rọ như khiêng cái võng vong đám ma, xung quanh dáo mác, đóm đuốc đùng đùng theo. Giữa khuya, vào qua Cửa Nam, ra bến Đá ngoài sông Cái.
Chỉ nghe tiếng nứa đuốc nổ lép bép, tiếng khóc rưng rức. Hai cái rọ bị ném sang chiếc đò ngang. Mấy chiếc đò nữa đã sẵn quanh đấy, xúm lại, cả đuốc cả người xô xuống, những chiếc đò bơi băng băng ra. Đã đến con nước giữa. Sông Cái vào mùa cạn, thành cát cao, nước miên man réo xiết. Không ai nói một tiếng. Nhưng cả ba bốn người ngồi áp đầu đuôi cái rọ. Bỗng thế nào mà Trắt quều được bàn tay sang cái rọ nhốt cô Tư. Một người giơ cái sào, định đập xuống, một người khác kéo vai, khẽ nói: "Mặc nó. Đằng nào nó cũng sắp chết rồi".
Cả mấy người ngồi đò đều lầm rầm như khấn :
- Chúng tôi không làm nên tội. Các người đừng oán chúng tôi. Ân trả ân oán trả oán, thiên hạ sinh sự, chúng tôi không làm nên tội. Các người...
Thình lình, hai cái rọ bị đẩy lăn tùm xuống nước. Thuyền quay ngay mũi, vun vút lao vào bờ. Trên thành, trống vừa điểm canh năm, ngoài sông vẫn tối mờ mịt. Đám lính bước lên bãi,
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện