[Việt Nam] Hà Hương Phong Nguyệt (1912)

Chương 2 : Trí sâu thiết kế thâu Nghĩa Hữu, Lòng độc âm mưu hại Nguyệt Ba

Người đăng: Lịch sử Việt Nam

Ngày đăng: 11:02 23-09-2018

Nói về họ Đậu, khi cưới hỏi xong xuôi rước dâu về nhà chồng. Nguyệt Ba vào làm dâu tài đức gồm no, mọi bề khôn khéo; thân thích bên chồng yêu mến, trong nhà trên dưới cũng đều thương; bởi vậy cho nên họ Đậu mừng lòng, nâng niu dâu hiền dường ngọc. Ngày kia, trời trong gió mát, bóng chiều đã xế đầu non, Nghĩa Hữu ra ngoài ngó mông, phút chốc động tình nhớ bạn. Nhớ những lúc vào màn ra trướng, nhớ những khi kề gối phụng dựa màn loan; nhớ cho tới tiếng nói tiếng cười, nhớ cho tới tướng đi tướng đứng. Nghĩa Hữu đứng thở ra chắt lưỡi, dạ ngùi ngùi chi xiết nỗi thương: thấy kẻ qua người lại bên đường, trông cho thấy mặt Hà Hương mà chẳng thấy; thơ thẩn mỏi chơn không đứng, Hữu mới ngồi trên một khúc cây, tay chống trán mắt đượm nhuần; bỗng nghe có tiếng sau lưng, kêu cậu hai văng vẳng; Hữu mới xay lưng ngó lại, thấy một người bộ tướng dình dàng, mở túi ra lấy một phong thơ trao cho cậu rồi khoanh tay đứng đó; Hữu xem thấy sự tình chưa rõ, gượng làm vui vói lấy phong thơ; bảo gã kia đứng đó mà chờ, đợi cho cậu mở thơ coi thử. Thơ rằng: Ngồi buồn tạm bút, Tỏ dạ phụ lang, Kính thăm anh đôi chữ bình an. Xin quân tử nghe em phiền trách. Kể từ thuở vợ chồng xa cách, em lần tay tính đã mấy trăng. Vì cớ chi bặt tích vắng tăm? Lời trái phải cũng không tính tới. Anh dầu có nơi nào bạn mới, cũng cho em rõ nỗi sự tình, làm chi em vắng vẻ một mình, tức tối bấy đau lòng tha thiết, nhớ bạn ngọc đoạn sầu chi xiết, thương thầm anh tấc dạ ủ ê. Chắc mẹ cha dạy đó thú thê, nên anh biệt bấy lâu không tưởng tới, Anh dầu có nơi nào quyền quới, em cũng nguyền giữ tiết cho nguyên. Trai như anh chẳng thiếu chi duyên, gái như thiếp lại thiếu coi người bạn thắm. Nhưng mà, niềm vợ chồng còn thương nhau lắm, anh nỡ nào phụ rẫy cho đành; Chẳng nhớ câu giai ngẫu tự nhiên thành, nỡ quên chữ lương duyên gio túc đế. Ngồi vắng vẻ tai nghe tiếng dế, dế kêu sầu đứt ruột đòi cơn. Đêm năm canh nằm nghĩ trách duyên, ngày sáu khắc than thân tuổi phận. Ngồi trông bạn trông rồi lại giận, giận rồi thương, thương rất đỗi thương. Nói ra thì tẻ lẻ phô trương, bằng không nói nín đi thì dại. Dầu phụ thiếp cũng vài lời trái phải, anh nỡ quên bến cũ đò xưa, lời bạc tình bụng thiếp cũng chưa. Sao anh lại dứt đàng Ô thước. Em dầu nhớ nhớ trong tích thước. Thiếp dầu thương thương gió nhớ mây. Biết cùng ai khuya sớm cho khuây, một mình thiếp vào ra trướng liễu. Hồi khi trước cũng không ai hiểu, anh đừng thương ai nỡ ép duyên. Căn nợ nầy dầu có đảo điên, em cũng nguyện một lòng trực tiết. Thiếp xa bạn trời cao có biết. Em lìa anh đất thấp dễ hay. Tuyết đông thiên sương lạnh gió day, trời lạnh lẽo tối nằm vắng vẻ, buồn ngó lên thấy chim thỏ thẻ, rầu nhìn xuống cá lội vởn vơ, tức mình nầy căm giận ông tơ. Đau dạ bấy hờn thay bà nguyệt. Xe chỉ thắm lơi không thiệt, chắp mối tơi chắp dối nên lìa. Anh xa em như khóa xa chìa, chàng xa thiếp như kim xa chỉ. Ngồi mỏi mệt nghiêng mình nằm nghĩ. Ứng mộng linh xem thấy rõ ràng. Nhìn bóng anh bước tới vén màn, ôm cổ thiếp tay choàng qua mái tóc, thiếp ngồi dậy và mừng và khóc. Tỉnh giấc nồng mới biết chim bao, kiến mộng linh dã dượi thêm đau, trăm đoạn thảm chàng ôi có biết, trăm năm giữ một lòng trực tiết, thà một mình chàng cho trọn chữ thiên kim. Phải chi em có cánh như chim, lén tới đó thăm chàng kẻo nhớ, mười đêm nằm đêm nào cũng mớ. Đợi tin chàng hè mãn qua thu, em ngoài nầy khác thể như vọng phu. Chàng ở trỏng như cá kia gặp nước. Em dầu nhớ biết làm sao được, dẫu mấy năm cũng phải đợi trông. Em xa anh như bướm xa bông, chàng xa thiếp như ong lạc nhụy. Ngồi nghĩ tới dòng châu hột lụy, đêm đêm nằm nước mắt rưng rưng. Nay gởi lời kính lạy phu quân, sao vậy cũng dời chưn gặp mặt. Ký tên: Hà Hương bái. Hữu đọc rồi nhào lăn ra khóc, đấm ngực kêu trời, tại bởi ai, một đứa một nơi, người than kẻ khóc. Trạnh mới kể nỗi niềm tơ tóc, rằng cô tôi nhớ cậu trằn trọc canh thâu. Tội nghiệp cô hai tôi thương cậu hết sức, cô tôi nói cậu mà không ra chắc cổ cạo đầu, theo ông thầy Đương mà qui y thọ phái. Xin cậu suy đi xét lại, cuộng ở đời ai biết đặng lòng ai, bây giờ đây mới rõ bụng cô hai, thương cậu biết để đâu cho hết. Cô tôi một hai đòi chết, để cậu lại cho an nơi, sống làm chi chồng góc biển vợ chơn trời, ngày tháng mỏn hơi trông đợi. Hữu mới nói: “Thôi mầy về nói lợi, lối bảy giờ tao tới cô mi; ủa mà thôi, mầy đứng đợi tao đi, về sửa sang khăn áo.” Nghĩa Hữu về sửa sang khăn áo, rồi ra đi theo Trạnh; lúc dọc đàng, Hữn than cùng Trạnh rằng: “Từ ngày ta với cô mi cách mặt nhau, ta cũng muốn tới lui thăm viếng lắm chút, ngặt vì nhà cô mi dập dìu giai nhân tài tử, nhộn nhàn quới khách vương tôn, nghĩ như ta tới mà cô mi biết niệm tình xưa nghĩa cũ chẳng nói chi, nếu cô mi kỳ hậu giã bạc, dĩ ngãi vi thủ, xô xấp xô ngửa ra, có phải là tàm tu mãn diện chăng!” Trạnh nghe nói mấy lời, liếc mắt ngó Nghĩa Hữu, chép miệng cười cợt, và nói chẩm bẩm rằng: ” Thưa cậu, bô khi cậu không ưa nói thứa cho bỏ sao chớ? Mắt cậu dầu chẳng thấy, tai kia chớ vội nghe, miệng người thì có, tin lai vẫn thì không, dễ nào cậu lại chẳng biết, lưỡi mối miệng lằng âu hãng. Từ ngày cậu đuổi cô tôi ra khỏi nhà, từ ấy chí nhẫn nay, cô tôi thật ăn không ngon nằm không ngủ, năm canh thức đủ nhan sắc kém hư, mười bữa như một, cứ lệ chiều ra đứng ngõ tư, chống mắt ngó mong mà trông cậu. Vẫn biết cuộc ở đời, ai đo được lòng người tốt xấu, đờn bà cũng hiếm tay, hễ vắng mặt chồng trên bộc trong dâu, như ai thì cậu nghi vậy cho phải, chớ như cô tôi, chim xanh đã ngăn rào, cứ lấm lúc ở nhà, đóng cửa trước mà gìn vàng, gài cửa sau mà giữ ngọc, chớ phải chơi sao cậu. Cô tôi nhớ cậu cho đến đỗi, năm canh trằn trọc. lòng tơ khôn phút đổi dời. Cô cũng có nói với tôi; cùng cậu xưa trót đã nặng lời, cớ ấy nên dầu tháng đợi năm chờ bao quản. Tuy cô tôi ở một mình mặc dầu, Tạ Côn mà láng quáng, cần gì tới tay tôi, cô tôi quăn thoi cũng oãn nữa mà. Vương Tôn nào mà dám lân la, quới khách cũng khó qua khôn lại.” Mãn luận bàn trái phải, bỗng đâu đã tới nhà; Hà Hương trong trướng bước ra, mừng nghĩa cũ mà sa nước mắt! Hà Hương chạy lại ôm Nghĩa Hữu khóc và kể rằng: “Bấy lâu đành cách mặt, nay phỉ nguyền cầm sắc sum vầy; thằng ba Trạnh đâu, mi tua khá nằm đây, đặng lát nữa có đưa cậu mầy về bển.” Nói rồi đem nhau vào hpo2ng, kể mấy nỗi sự tình mấy trăng cách bức; Hà Hương rằng: “Tự thứ chi tư, thiếp cũng ngỡ ôm tùng nhờ bóng, có dè đâu thân cát đằng dãi nắng tắm mưa cũng vì chàng phụ rẫy nghĩa xưa, chẳng nghĩ cuộc sớm trưa trong trướng.” Nghĩa Hữu nói: “Ta vẫn biết phu thê là nghĩa trượng, bởi vậy ngày những đêm lòng tưởng dạ trông, dốc trăm năm đó vợ đây chồng, hay đâu nỗi tiền tài phân nhơn ngãi. Trên cha mẹ dầu không tưởng đoái, dưới nàng sửa sang cho phải đạo dâu, cái nầy không: Nàng làm cho phúc thủy nàng thâu, tới đến đây, dẫu muôn thảm ngàn sầu cũng chịu, chớ biết sao bây chừ. Hương khóc mà rằng: “Nghĩa nhân ôi! Cuộc đời, trí giả thì tự xử, ngu giả để quan phân, em nghĩ cũng đã cạn, trên không thương dưới há dám gần, em ôm bụng chịu ra đi, bởi đương ngộ biến em phải quyền như vậy. Em cũng tưởng ra rồi liệu nắng bề nào che theo bề nấy, lại em cũng nghĩ hễ người viễn lự vậy vô ưu, em mong hiệp nghĩa thơ cưu, có dè đâu em ra khỏi cửa rồi, vi chẳng khác một lang nan phản. Từ ngày em nghe thiên hạ đồn rằng chàng cưới con Nguyệt Ba đến nay, ruột thiếp đau từ đoạn, nay may mà gặp mặt chàng đây như hạn gặp rào, vậy thì duyên xưa sao nay tính làm sao, xin chàng tỏ âm hao cho hãn. Chớ phải chi thê một chàng chú thê cho đáng, cái nầy thiếp còn sống sờ sờ đây, chàng lại cưới con Nguyệt Ba, hay là chàng mãi thiếp phải củng chăng? Chàng nghĩ mà coi, vợ chồng mình tình mặn muối chẳng bằng, chàng nỡ phụ gối chăn từ ấy. Nghĩa nhân ôi! Chàng mà bức thiếp thiếp cũng đành phận vậy, nhâng mà thiếp lo, uổng cho danh giá chàng đáng mấy hỡi chàng ôi! Phận thiếp cũng như hoa lạc nhành dầu có nổi trôi, đem thân lưu lạc giang hồ rồi, bao quản nổi gió sống giồi gió dập. Phải chi ma xưa cội liễu nẩy chồi cho gấp, ngày nay vợ chồng ghét bỏ nhau, chàng cũng còn cố cập chút tình thâm; Nghĩa nhân ôi! gánh chung tình thiếp đã cạn tâm, xin chàng nghĩ lại, nếu mà chàng bỏ lẫy các lầm ngọc trắng.” Hữu nghe nói ngồi làm thinh lẳng lặng, hình như lóng tiếng đờn bản oán Tần cung; Hà Hương càng khóc càng ửng đỏ mà hồng, Nghĩa Hữu càng trông càng khoái. Tục đời ví thương quá nên hóa dại, mắt rưng rưng không nói lại một lời, ôm Hà Hương mà hun, ruột rối bời bời, vậy mới biết sắc nước hương trời rất mạnh! Nói về ba Trạnh vâng lời Hà Hương nằm nơi ván mà đợi khuya đưa Nghia Hữu về, trống đã trở canh ba mà ba Trạnh mãn nghe thút thít trong buồng, ngoài nằm không nhắm mắt. Thình lình Trạnh vụt ngồi dậy, bộ sợ như kẻ đi rừng mà ngộ sơn lâm, Trạnh vừa muốn đâm sầm, chạy vô buồng cứu vực. Cũng vì Trạnh nằm thao thức, lóng nghe tất sự tình, bây giờ sao lại làm thinh, sợ cô với cậu liều mình tử sinh không hãn. Chẳng dè chưa bước chơn khỏi ván, Trạnh nghĩ ra vùng nói oản một mình: “ối! lạ chi cái khối tình, ong xưa nhìn hoa cũ!” Hà Hương nghe, hỏi. Trạnh thưa rằng; “Canh gà đà đếm đủ, xin chủ chớ dần dà.” Chập lâu Nghĩa Hữu bước ra, cùng ba Trạnh đàng nhà trở lợi. Hữu nói: “Như nàng có thương tình tưởng ngỡi, đừng nệ công sớm vãn tối lai, đứng đợi ta lối cửa ngõ Thầy Cai, ta đến đ1o hiệp vầy đôi lát.” Hà Hương theo ra đưa Nghĩa Hữu, biểu Trạnh rọi đàng đi trước, vợ chồng dõi bước theo sau, tội nghiệp Nghĩa Hữu nghe Hà Hương thút thít chừng nào, ruột thêm đau như cắt. Hà Hương mới nói: “Đêm nay vợ chồng hiệp mặt, khúc độc đã tỏ bày, như phận tôi bấy chừ, chặt lỏng cũng ở tay, nhờ ơn chàng tế độ. Xin chàng hãy hết lòng chiếu cố, mựa chấp nê giận lẫy khổ thân tôi; thành lở tang chàng ra sức đắp bồi, loan phụng mới sánh đôi như trước. Lời tục nói: Nước mà đổ hất khó hốt đầy được, như ai kia mà rằng, chớ như chàng mà còn thương, dầu cho chuyện ngược tính cũng xuôi.” Choàng tay ôm Nghĩa Hữu mà khóc vùi, Hữu thấy vậy cũng khôn nguôi tấc dạ. Tiếng đời ví nghĩ phải quá: “Thật là sắc bất ba đào mà thành ngã quán xiêu.” Ngọn đuốc soi hai má ửng điều, Hữu trông thấy càng đắm yêu nhan sắc. Hữu mới nói: “Nàng chớ vội tuôn rơi nước mắt, chẳng nay thời mai, chẳng mai thời mốt, vợ chồng ta cũng đắc tương phùng, cùng nhau chăn gối đã chung, lẽ nào lại phụ nhau sao phải.” Hà Hương nói: “Xin chàng hãy suy đi xét lại, biết lòng trên tưởng đoái cùng chăng? Thiếp thương chàng vẹn đủ mười phần, vậy mà thiếp hãy còn lo, lo biển ái với nuồn ân lơ lãng.” Hữu rằng: ” Trên dầu chẳng nghĩ tình đành đoạn, anh nguyền khôn rẽ phụng lìa loan. Thà cùng nhau thác xuống suối vàng, cho trọn nghĩa tào khang từ ấy.” Hà Hương nói: “Chàng chẳng xét nỡ phán như vậy, đạo sanh thành dám lấy làm khinh, vỉ chi một nét chữ tình, chàng nghĩ lại đó mà coi, đi thất hiếu hủy mình sao phải. Chàng có than thỉ ỷ ôi cho lắm, cha mẹ dầu tưởng đoái; còn cục nợ oan gia là con Nguyệt Ba chàng giao lại cho ai? Đờn bà ai cũng như nấy, dễ nào đành cho chồng một vợ hai, thà một gáo một chình, dầu có khó đói ăn một ngày một bữa. Thiếp mới hay con Nguyệt Ba đà có chửa, lẽ nào ví một tôi cho hư cửa hại nhà.” Hà Hương nói: “Chàng chẳng xét nỡ phán như vậy, đạo sanh thành dám lấy làm khinh, ví chi một nét chữ tình, chàng nghĩ lại đó mà coi, đi thất hiếu hủy mình sao phải. Chàng có than thỉ ỷ ôi cho lắm, cha mẹ dầu tưởng đoái; còn cục nợ oan gia là con Nguyệt Ba chàng giao lại cho ai? Đờn bà ai cũng như nấy, dễ nào đành cho chồng một vợ hai, thà một gáo một chình, dầu có khó đói ăn một ngày một bữa. Thiếp mới hay con Nguyệt Ba đà có chửa, lẽ nào vì một tôi cho hư cửa hại nhà.” Hữu nghe thấm ngẫm thở ra, nhớ đến Nguyệt Ba mà nổi ốc. (Tánh sợ vợ mà hay nói bốc, chuyện nầy lậu ra, con Nguyệt Ba nó mà không kéo đầu thì cũng níu óc phải chơi) ngần ngừ chàng mới bày lời, làm trai đứng trong đời xử thế. Tay co mà vững, dầu việc chi cũng dễ, một vai gánh hai thùng, nó mà không nghe thì ta phế nó để chi; nàng đừng lo, có đàng dài mới biết sức ngựa đi, nói thì nói vậy chớ nay chưa biết là gì cho chắc.” “Thưa cậu tới nhà”. Hà Hương nói: “Thôi mình vô đi, tối mai tôi với thằng Trạnh đợi mình trước nhà thầy Cai, mình nhớ ra đi, đừng quên nghé.” Qua đêm sau, trời vừa tối Hà Hương kêu Trạnh đi, tới trước cửa ngõ thầy Cai đứng đợi, tới khuya mà không thấy Nghĩa Hữu ra, chẳng biết làm sao mà thất tín. Bỗng đâu trời nổi giông nổi gió, mưa đổ như xối. Hà Hương với Trạnh mới chạy vô cửa ngõ thầy Cai mà đụt. Cửa thì nhỏ mưa thì lớn, nên Hà Hương quần áo ướt dầm, lạnh rung bây bẩy. Nhà thầy cai chung quanh có rào một vuông tre rậm rạp, trước cửa ngõ lại có một cây liễu che phủ xũ nhành; trước thì lộ quan, ba bên thì ruộng rẫy. Giọt mưa tuôn rỉ rả, tiếng dế khóc bên thềm, Hà Hương nghĩ đến nỗi niềm, ruột đau từ đoạn. Gió thổi đờn tre nghe thảm thiết, còn cây liễu thì mưa nhỏ sa giọt vắn giọt dài. Hà Hương mới ngâm một bài than thân trách phận. Thơ rằng: Lả chã mưa sa điểm bạc đầu, Mịt mù mây phủ biết là đâu! Trước than tiếng đổ muôn ngàn thản, Liễu khóc lụy tuôn mây đoạn sầu. Người lánh trong màn ôm dạ nhớ, Kẻ ra chở ngõ quặn lòng đau. Ai trêu duyên thiếp chi cho rối, Tan hiệp dường ni hận biết bao. Hà Hương ngâm thơ rồi ngồi sa nước mắt, nghĩ nỗi cay đắng ngậm ngùi, oán Nguyệt Ba bất tận. Đợi Nghĩa Hữu tới đầu canh ba mà chẳng thấy, liền tắm mưa mà trởi lại nhà, sầu thảm biết sao kể xiết. Về tới nhà Hà Hương thay mình rồi nằm lăn qua lộn lại, giấc nhắp chẳng yên, nghĩ chẳng biết làm sao mà tình nhân thất tín. Sáng ngày Hà Hương ướm lạnh, ngáp chảy nước mắt sống, dã dượi muốn đau; tại bị dầm mưa, phần thì năm canh thức đủ. Chiều lại Hà Hương kêu Trạnh biểu rằng: ”Mi hãy đi vô trong xóm, dọ coi tin tức làm sao? Nói với cậu mi: tao nhuốm bịnh đau, biểu ra cho tao nói chuyện.” Nói về Nghĩa Hữu, về tới nhà đà gần sáng, kêu Nguyệt Ba mở cửa bước vào, Nguyệt ba mới hỏi âm hao, theo con nào mà khuya vậy? Hữu nói: “Mới ra gặp thầy Cai liền cậy, đi ra làng với thẩy mới về, con nào đâu trong chốn nhà quê, đừng bắt chước ghen tương xấu lắm nà, cứ giữ việc gia tề nội trợ, thì hay hơn mà.” Nguyệt Ba nói: “chàng mựa ví bưởi bồng một dạ, như ai kia, chớ như thiếp, chàng đừng cho vàng đá lộn nhau, hễ có nói thì chàng nói rằng ghen, thiếp mà gián can là vì thiếp sợ e sắc bất ba đào, chàng nhắm trước xem sau mà coi, anh hùng lụy biết bao mà kể. Mãn có vậy đó, cho nên chồng bỏ vợ thiếu gì trong thế, đắm sắc rồi chẳng kể thân danh, cửa nhà tan thiên hạ khi mình, sự sản nát cũng vì tình với sắc. Lạ chi giống phấn son trêu trước mặt, tưởng đồng tiền chớ tình thật chẳng thương; coi thì bảnh bao mà như thây ma để giữa đường, thơm chi đó yêu thương lắm bấy. Cũng hiếm kẻ ham vui quên quấy, rủi lầm mang bịnh (ấy) khốn thay, vui với ai sướng với ai, chừng đau ốm lại hành con đày vợ. Chàng tính lại coi, hoa thiếp đã gần ngày nở, chàng không lo giúp đỡ cho nhau, xin chàng thương xét trước nghĩ sau, nghe thiếp kể âm hao mà từ bỏ.” Hữu chối một hai không có, bậu cần chi phải đón ngõ ngăn rào, bấy lâu nay chăn gối làm sao, nay lại bắt chước chị nào mà ghen quấy. Canh gà đâu vội giục, Nguyệt Ba ra thức giấc tớ nhà, vợ chồng họ Đậu bước ra, mới hỏi Nguyệt Ba cho biết; Vậy chớ thằng Hữu đêm nay nó đi đâu mất biệt, mi khá phân cho thiệt dường nao; Nguyệt Ba chưa biết tính làm sao, sự thật lẽ nào gian dối. Rằng: “Nghĩa Hữu đắm say quên lỗi, mê nguyệt hoa lặn lội canh khuya, đầu canh tư Hữu mới trở về, lại còn nói văn kia thế nọ. Họ Đậu giận hét la rầy ó, Hữu làm thinh chẳng có một lời, mẹ cha mắng nhiếc tơi bời, rồi mới tính việc cầu trời khẩn phật: ” Hữn, mi mau khá thuê thuyền cho chắc, kêu bạn bè chèo chống thật hay, mai ngày rằm hai đứa bây phải ăn chay, sắm hoa quả cho vợ chồng bây vô chùa bà mà khấn vái.” Vừa dứt tiếng bỗng đâu đã thấy, bốn người vào đứng cửa xin ăn. Đội nón tròn đầu chẳng có khăn, áo vạt hò quần ngang đầu gối. Đi câu mà bị bão tố, mới ra thân trôi nổi, gạo muối không, lưng túi cũng vắng tanh. Vợ chồng họ Đậu hiền lành, nghe nói vậy chẳng đành bỏ quá; mới hối trẻ dọn cơm cùng cá, cho bốn người đỡ dạ kẻo thương, ăn no rồi bốn cậu mới chường, ơn ông bà sánh bường sông biển. Họ Đậu mới bày ra hỏi chuyện, làm nghề câu khi chèo chống chắc hay, như thạo nghề thì tôi mướn ít ngày, đặng có đi vô Hương Điểm. Bốn cậu vòng tay đứng bẩm, ơn ông bà sánh tợ đất trời, như tưởng tới chúng tôi, thì chúng tôi nguyền ra sức. Việc chi thì bất lực, nghề chèo ghe hay thật hẳn hòi, trời muốn dông tôi cũng biết mòi, đi sông nhỏ mà kể gì, ra giữa biển tôi nằm coi sao mà chạy kia chớ! (Giỏ vậy sao còn bị bão, cậu?). Họ Đậu nghe qua đẹp ý, mới cầm ở lại mai đi, Đậu bèn sai Nghĩa Hữu tức thì, thuê thuyền sẵn ngày mai chực bến. Qua bữa sau, lối bốn giờ chiều, cơm nước xong xuôi, Nguyệt Ba với một con đòi, biểu bổn bạn bưng hoa quả xuống thoàn ra bến. Họ Đậu mới hỏi: “Hữu, sao mầy ở lại, không đi cho có bạn với vợ mầy?” Hữu đáp rằng: “Chóng mặt chóng mày, nên tính đi không tiện.” Dè đâu ghe lui vừa khỏi bến, Hữu tót qua trò chuyện với Hà Hương; hai đứa thấy nhau rồi, thì tỉ như ruồi mà gặp mật đường. Ối! kể sao xiết nỗi thương nỗi nhớ! Nói về Nguyệt Ba, thuyền ra đi một đỗi, sóng gió nổi ba đào, thuyền thì nhỏ sóng lại to, sợ có rủi ro mà thiệt mạng, Nguyệt Ba mới khiến bạn chèo vô rạch, đậu lại đó núp, chờ cho gió ngã sóng tan; chẳng dè đợi càng khuya dông càng lớn. Trời thì mưa đổ tuôn như xối, nào lái nào bạn y khâu ướt dầm, lại thêm gió thổi rất lạnh lùng. Nguyệt Ba trùm chiếu nằm co rút; Nguyệt Ba mới biểu con thị tùy rót nước, đem lại uống cho ấm lòng, uống rồi cũng trùm lại mà nằm, tay chơn rung bẩy bẩy. Con thị tùy lén uống chơi ba hớp, rồi cũng chun vô kiếm chỗ nằm khoanh; đến chừng khuya mưa tạnh gió êm, bạn mới lui ghe tách dặm. Đàng không xa mà ghe đi không thấy tới, chèo sáng đêm mà bạn hỡi còn chèo; còn Nguyệt Ba và con thị tùy, mặt trời mọc mà hãy còn nằm êm giấc. Trời đã tròn bóng, Nguyệt ba cũng còn nằm ngáy pho pho, cho tới con thị tùy, cũng là bắt chước chủ nằm không cục cựa. Bạ mới thả ghe trôi ra sau vầy lửa, nấu ba hột cơm xúm lại đỡ lòng. Ủa lạ nầy! Đi Hương Điểm sao lại tới Cù lao Rồng, còn ghe bầu nào neo đây mà có cậu Trạnh leo lên mui đứng ngó. Chuyện chi chưa rõ. Trạnh ngoắc kêu ghe nhỏ chèo riết tới cặp ghe bầu; đôi đàng to nhỏ hồi lâu, Trạnh mới bước tiểu thoàn, lột của Nguyệt ba hai đôi vàng và ba lượng chuỗi. Chuỗi thì Trạnh thòng vô túi, còn vàng thì đem đưa chó chú lái ghe bầu, chuyện vãn một đỗi cũng lâu, Trạnh mới biểu bạn khiên Nguyệt Ba với thị tùy bỏ qua ghe bầu lập tức. Đoạn rồi đôi đàng từ giã, ghe nhỏ mới xô ra, Trạnh biểu bạn gay chèo, chèo tuốt qua Rạch Miễu. Tới mơi bốn tên bạn thay quần đổi áo, rồi nhảy phóc lên bờ theo Trạnh, bỏ ghe; đạp bộ về Bến tre, tới nhà đà gần sáng, Trạnh với bạn bước vào nói nhỏ cho Hà Hương đặng hãn, việc tính xong về báo công than; Hà Hương mừng thưởng bạc lại cho Trạnh một cái khâu vàng, còn hứa mai ra phố mua lãnh xé hàng cho bây may quần may áo. Số là bữa diếp Hà Hương có sai Trạnh vô kêu Nghĩa Hữu, và dọ coi tin tức làm sao? Trạnh về nói rằng: Nguyệt Ba sửa soạn đi chùa, dưng hương cầu khẩn. Hà Hương nghe mừng dạ, mới biểu bốn đứa thì giả dạng xin ăn, đặng lãnh việc chèo thuyền, có tùy cơ ứng biến. Hà Hương trao ra một gói, dặn dò cặn kẽ trước sau; còn Trạnh thì tuốt qua trước bên Mỹ Tho, giao kết với ghe bầu chở ra biển đông mà nịch thủy. Bởi vậy lúc nước dông Nguyệt Ba với con thị tùy uống nước, lầm thuốc mê nên nằm mà ngáy pho pho, còn Trạnh thì lúc thuyền tới Cù Lao Rồng, đã có Trạnh đứng trên ghe bầu chực sẵn. Nói về lái ghe bầu lãnh vàng rồi hối bạn kéo neo lên chạy, chiều tối ra khỏi Vũng tàu, gặp gió thẳng buồm, lái bạn mới xúm nhau ngồi vây vòng nói chuyện. Lái rằng: “Hai đôi vàng ta lãnh đây tính làm sao? Chẳng lẽ chịu lãnh của người mà không ra sức? Còn hai con nầy tôi mới cho nó hít thêm thuốc mê hồi trưa, bây giờ đây nó cũng đà gần tỉnh dậy. Vậy thời càng nầy tôi chia cho anh lái phụ với bốn anh bạn ba chiếc, còn một chiếc thì phần lái chánh là tôi. Bây giờ đây cũng đã tối rồi, anh em lãnh lấy của, đặng mà ra tay quẳng xuống biển cho rồi đi.” Lái phụ liền lãnh lấy, rồi kêu nhau xúm lại mà khiên, có anh bạn đang nấu nước phía sau, chạy tới biểu khoan khoan mà cản lại. Bọn kia mới hỏi, có chuyện chi mà thằng Ó nó làm kỳ: “Ó, vậy chớ mầy còn ức hiếp nỗi gì, mà mầy ra mà tranh cản.” Ó rằng: “Khoan đã, khoan đã, mau ngừng tay tôi phân cạn đuôi đầu, từ hồi sớm mai tới bây giờ tôi đánh chữ làm thinh, là vì tưởng lòng anh em cũng như tôi vậy. Anh em nghĩ lại đó mà coi, thân ai như thân nấy, nay mà mình tham tài ra hại mạng người, của ấy đáng mấy mươi, mà nỡ sát sanh hai mạng. Lại thêm vàng ấy cũng chẳng phải là vàng đem mướn, nó lột của con nầy mà trao lại cho ta, nếu mình chẳng biết xét xa, có phải là mang lỗi cùng trời đất. Bởi thù oán nó tá tha nhơn chi chủ, mình dại chi mà buộc tội lấy mình, hễ ăn của người thì ủng hộ cho người, vàng thì là vàng của con nầy, có lẽ nào mình không hộ nó. Lời tôi đà cạn tỏ, anh em nghe rõ sự tình, vậy thôi anh em hãy cho tôi xin, đừng hại nó làm chi tội nghiệp. Vàng vòng thì anh em chia nhau xây dụng, con hai đứa nầy, thôi, anh em cho tôi lãnh dưỡng nuôi, ở dương gian mà cứu đặng mạng người, trời đất há chẳng thương người phải.” Lái bạn đều nghĩ lại mới đàng cho Ó làm nhơn, Ó mới lật đật đi mài thuốc mà giải mê, đổ nước cháo cho Nguyệt Ba với con thị tùy tỉnh lại. Mở mắt thấy minh mông đại hải, Nguyệt Ba mới hỏi, thuyền nào đây, lái bạn nào đây? Thị tùy, Nguyệt Ba kệu thị tùy mà thị tùy còn ngầy ngật chưa an, nghe, muốn dậy mà khôn phang ngồi dậy. Ó thuật lại, chuyện như vầy đành vậy, theo ta về nương náu chờ tin, giữa biển đông sau trước một mình, nàng phải ráng làm thinh rồi sẽ tính. Nguyệt Ba say mới tỉnh, ngh nói liền phách lạc hồn phi, Nguyệt Ba ngồi lạy Ó tức thì, xin tưởng chữ ái ô cập ốc. Ó mới hỏi: “Nàng khoan bày khúc độc, để tới nhà rồi sẽ cạn phân, thoáng tới đây thời cũng đã gần, thôi, nàng ăn ba miếng cháo đỡ lòng rồi nghỉ.” Sáng ngày thoàn tới Hòn Bà, là chỗ nhà Ó ờ. Bạn bè ghé lại, cho Ó lên bờ, Ó đem Nguyệt Ba với thị tùy lên rồi, bạn dựng buồm chỉ dặm. Số là thoàn ở ngoài Phan Rí, Ó quá giang đi bán cá khô, may đâu cứu đặng hai cô, dẫn về trình với mẹ. Ó thì chưa có vợ, còn mẹ già ngày tháng phụng thờ, mẹ Ó nghe mới rõ tri cơ, ngồi nhắm Nguyệt Ba mà khen thầm trong bụng. Tõ ràng mày tầm mắt phụng, má phấn môi son, mẹ Ó mới hỏi, nhơn việc chi mà lâm nạn vậy hỡi con, cha mẹ dường nào khá nói? Nguyệt Ba ngồi nghe hỏi, mắt đượm nhuần quì lạy tỏ phân: “Cha mẹ tôi nhà ở chẳng gần, bởi lầm kế mới ra thân cực khổ. Cha mẹ chồng tôi là người giàu có, chuyện như vầy nào rõ đặng đâu; từ ngày tôi vào cửa làm dâu, trên dưới thảy thuận hòa yêu mến. Bởi vì tôi man mễn, thuê thuyền đi đến tự dâng hương, ai dè đâu chưa đặng nửa đường, trời nổi trận phong ba quá đỗi; phần thì trời đã tối, mới ghé thuyền vào rạch núp dông, bị mưa sa mình lạnh như đồng, tưởng uống nước cho ấm lòng đỡ lạnh. Dè đâu, uống một lát mê mang bất tỉnh, nằm như say nào có biết chi, bạn bè thì cứ việc chèo đi, thân tôi dường như chết. Chừng tỉnh lại nghe ân nhân nói hết, mới biết rằng kế của con Hà Hương nó quyết hại tôi. Xưa nó là vợ trước chồng tôi, bởi tại nó lứa đôi rời rã. Chừng họ Đậu đi nói, cha tôi chịu gả, nó lại đến mà khuấy phá cho lỡ duyên, may đâu nhờ giai ngẫu tại thiên, phá không đặng nó lại tính riêng thế khác. Bở chồng tôi chẳng nghe tôi mà tự tát, nó đỏng đưa câu hát giọng đờn, chồng tôi mê nên cạn tỏ nguồn cơn, nó mới là rõ tôi đi chùa mà lập kế; nó cho những là tay chơn vai vế, giả làm người lỡ bước xin ăn, bây giờ đây tôi hiểu rõ ràng, người qua Mỹ Tho đó là thằng ba Trạnh, bởi gia môn hữu hạnh, mới khiến cho ân nhân chịu lãnh đặng tồn sanh, chuyện đầu đuôi tôi đã phân minh, xin bà thưởng tưởng tình chiếu cố. Sau dầu đặng khúc oan nầy tỏ, mẹ cha tôi nghe rõ sự tình, ơn đức bà cứu tử hườn sinh, muôn kiếp cũng còn ghi dạ,” Mẹ Ó nghe thương quá, mới đành lòng nuôi dưỡng tháng ngày, thấy Nguyệt Ba hoa đã ầu khai, mẹ Ó lo sắm tiêu sắm nghệ. Thương Nguyệt Ba như con đẻ, bởi vì thấy Nguyệt Ba thủ lễ đủ điều. Tuy vậy mà Nguyệt Ba ruột thắt chín chiều, sầu thảm biết bao nhiêu mà kể. Thoảng mãn ngày qua tháng lợi, Nguyệt Ba đã khai hoa, tội nghiệp thì thôi, trổ nam nhi mà chẳng thấy mặt cha, nhờ mẹ Ó vô ra săn sóc. Nguyệt Ba nghĩ đến niềm tơ tóc, tay bồng con, mắt khóc chan òa; nỗi oan vu cũng tại chồng ta, tham sắc mới ra đến nước. – Con ôi! Mẹ những dầu vô phước, chốn diêm đài lạc bước khốn thay; con nằm đây khát sữa bú tay, ai bồng ẵm cậy ai nuôi dưỡng. Vái trời đất xét soi rộng lượng, độ mẹ con tôi cho đặng thân an, sau những dầu hội hiệp nhứt tràng, khúc oan ấy lượng quan minh đoán.” Nhìn mặt trẻ lụy tuôn lai láng, mẹ Ó nghe sợ oản can rằng: ” Con mựa đừng tính việc lăng quằng, mà sanh rối bề ăn lẽ ở. Bởi con dại nên con không sợ, việc lâm bồn khó tợ quá giang; vái trời cho con được bình an, khá bỏ hết khúc oan đừng tưởng tới. Con thương trẻ phải tua nghĩ lợi, nếu mà thán oán hoài họa khởi nan lương, chốn cồn cư biết liệu hà phương, nơi sàn giã biết đường nào lo chạy. Sau con đặng quê xưa trở lại, có phải là vợ gặp chồng con dại gặp cha, mặc tình con khống cáo giữa quan nha, đây mà con có khóc la ai biết. Thôi, con khá nghe già, từ quyết, đừng nhớ chi những việc ngày xưa. Khá giữ gìn cho ngon bữa sớm trưa, như vậy mới vừa lòng mụ. Nguyệt Ba hứa bỏ qua chuyện cũ, cảm tạ tình dưỡng mẫu đoái thương, ngày tháng qua thằm thoát lạ dường. Nguyệt Ba đẻ đã đầy tháng chẵn. Lễ chi cúng mụ bà cho đặng, chốn thú quê muối mặn với cơm khô. Vái lâm râm xin mụ chứng cho, thân trôi nổi đói no chưa dễ. Mẹ Ó hỏi lấy tên chi mà đặt để, Nguyệt Ba rằng tự mẹ liệu toan; mẹ Ó liền đặt nó tên Thoàn, đặng mà để tích mắc nàn giữa biển. Nói về vợ chồng Đậu Nghĩa Sơn ở nhà trông dâu càng ngày càng bặt, chưa hay đàng sá làm sao, mới sai người vô Hương Điểm hỏi coi, duyên cớ thể nào cho biết. Còn Hữu thì từ bữa Nguyệt Ba lui thuyền đi biệt, tuốt qua Hà Hương mà ràng rịt ngày đêm, chẳng lo tới việc nhà, chẳng tưởng tới Nguyệt Ba đàng sá. Ngày ấy Hữu với Hà Hương đương hỉ dạ, đang đờn ca trà rượu ngỏa nghê, bỗng đâu có trẻ vào kêu, cậu về cho ông bà dạy chuyện. Hữu mới hỏi có chuyện chi mà kêu vậy? Trẻ nói rằng: “Cô đi tới nay mà chẳng thấy về.” Hữu mới sực nhớ hiền thê. Hà Hương ngồi cười chúm chím. Hữu ngưng chén ra về một nước, bước vô nhà vắng trước quạnh sau. Vợ chồng họ Đậu hối Hữu cho mau, vô thăm hỏi lẽ nào cho biết. Còn vợ họ Đậu thì tuốt qua sui gia mà nói. Cậu Thân với mợ Liến sợ bưng khuâng. Mụ Lưu oản chạy tưng bừng, chưa mấy phút xóm làng hay hết. Chiều lại Hữu trở về nói lại tìm chẳng đặng Nguyệt Ba, chẳng biết thuyền xiêu lạc chốn nào, không có đi vô Hương Điểm. Tôi hỏi đà cặn kẽ, những người quen lối chợ, không ai thấy nó vô; tôi e sợ bữa nó đi bị một đám dông, nên thuyền trôi qua Mỹ chăng. Vợ họ Đậu nói: “Thôi để tao ra thầy Cai báo cáo, đặng cho quan tìm kiếm thử coi.” Thầy Cai mới lấy lời khai, làm phúc bẩm giải ra biện lý. Quan Biện lý mới hỏi qua ngày tháng, đi ngày nào, ra bến giờ nào? Đi dưới chiếc ghe nào? Dài rộng dường bao khá nói, có ai theo cùng chăng, bạn bè mấy đứa tên gì? Họ Đậu mới bẩm quì, đi có thị tùy theo dõi, thuyền thuê bên tên Lõi, dáng ghe bầu chở đặng thiên hai, bạn bè không quen biết mặt ai, bốn người lạ mướn vô chèo chống. Biện lý hỏi: “Vậy mà có đeo vàng đeo chuỗi, hay là mình không với hoa quả mà thôi?” Đậu khai rằng vàng được hai đôi, chuỗi cũng chừng vài lượng. Biện lý quở cớ sao làm chướng, bạn lạ lùng mà dám mướn vô chèo, lại còn đeo vàng theo giục ý đứa nghèo, tham làm quấy, ai theo mà đỡ cho. Thôi khá về nhà hỏi dọ, để cho quan lớn tri tầm. Nói rồi bút nọ liền cầm, viết dây théo hỏi thăm các tỉnh. Nói về mụ Lưu nghe Nguyệt Ba bặt tích, ngoài mặt thì làm bộ buồn, trong bụng lại vui, bèn tuốt qua mách thót với Hà Hương, công cuộc Nguyệt Ba lâm nạn. Tưởng là Hà Hương không hãn, ai dè đâu nó biết cháng đầu đuôi, gặp Hà Hương bà mụ mừng vui, đâu đầu lại nhỏ to chuyện vãn: Nguyệt Ba đà lâm nạn, kể từ đây cháu đặng ở an, mừng cho khỏi lỡ gối chăn, phải mà còn nó, cháu ắt lỡ làng duyên nợ. Hà Hương mừng tở mở, mới nói dây buộc rồi ai gỡ cho ra, cớ đỗi nầy cũng tại Nguyệt Ba, giành chồng cháu mới là thọ hại, nó mà biết nghĩ điều trái phải, xưa hồi tâm trả nợ lại cho tôi, có đâu nay ra phận nổi trôi, đáng kiếp đứa bạc vôi dường ấy, gặp tay tôi còn chi mà trông cậy, lầm kế cháu sống lại đặng đâu, giết nó rồi mới hết lo âu, bằng để nó cháu buồn rầu khôn xiết, mưu tôi đặt quỉ thần khó biết, trời cao nào mà rõ việc thâm sâu, bà là bà tôi, tôi mới nói thiệt hết đuôi đầu, ráng mà kín miệng kẻo âu họa tới. Mụ Lưu cười mà rằng: “Vậy mà bà không hiểu, nên bà mới tỏ phân, trí của con thiệt ít kẻ bằng, kế của cháu quỉ thần khó biết. Thôi cháu phải ráng cột thằng Hữu qua mà o riết, đặng vợ chồng vầy hiệp nhứt gia, họ Đậu mà nó không ưa cũng không sao, chừng nào thằng Hữu mà nó ghét con, con mới bước ra, mụ gia mà ghét, cứ đi vào ngủ. Thôi, bà về cháu.” Nói về Nghĩa Hữu đêm nằm thao thức, thương tưởng Nguyệt Ba, bèn vội dậy đốt đèn, ngồi khoanh tay mà ngó. Hữu nghĩ rằng: “Ngày Nguyệt Ba đi, thai đà tám tháng, chẳng lẽ Nguyệt Ba còn lòng dục thói dâm ô; còn như ghe mà chìm, chẳng lẽ bạn bè không ai thoát nạn. Dầu cho mà thọ hại, và bạn và lái chẳng còn, thì làng xóm cũng gặp thây, có lẽ nào đi luôn và hồn và xác. Chuyện xét ra cũng lạ, e cho Nguyệt Ba lầm kế độc của … Nghĩa Hữu muốn nói kế độc của Hà Hương mà nói tới đó lại ngừng, dường như bụm miệng. Cuộc ái ân liền khiến, Hữu động lòng thương nhớ Hà Hương, Hữu mới bước lại giường, nằm thở ra mà chắt lưỡi. Giấc hòe chưa mê muội, chiêm bao thấy tủi lòng; thấy Nguyệt Ba mang mển tới cửa phòng, vén trướng kêu chồng đàm đạo. Hữu dậy ngồi ngơ ngáo, đôi mắt đà không ráo dòng châu, nghĩ tức mình chẳng biết tại đâu, nên nệm chích gối nghiêng sầu trăm đoạn. Ta cũng nguyện uống hờn ăn oán, mầy đừng có trách, nghé, … mầy hại vợ tao lâm nạn hỡi Hà ….. Cơ khổ thì thôi, Hữu nghiến răng, nói tới chữ Hà, bỗng sắc mặt mặn mà, nín mất. Nỗi thương đà khó dứt, Hữu lấy khăn lật đật đi ra; kêu trẻ dậy coi nhà. Hữu tuốt qua Hà thị. Qua tới nơi trong nhà đều nghỉ, Hữu mới kêu Hà thị dậy đốt đèn, tay thì chậm mắt chùi ghèn, tay nọ dỡ then mở cửa. Khá khen cho đôi lứa, gặp mặt nhau như lửa với rơm. Hữu mà thấy Hương như đói thấy cơm, nào tưởng việc trả hờn cho vợ. Bước vào hăm hở, Hà Hương mừng tở mở ôm hun, nỗi thương kể chẳng cùng, ngày hôm qua tới nay mình đi đâu? Chẳng hay việc kiết hung, bày tỏ thỉ chung nghe thử nào. Mặt Hữu coi lơ láo, bị hun có một cái mà bủn rủn tay chơn quên ráo việc nhà. Hà Hương mới nói qua, chuyện Nguyệt Ba bặt tích. “Xưa cha mẹ chê tôi, để tôi, bỏ tôi mà đi tìm dâu lịch, ra cớ sự ni, mình nghĩ lại coi có ích chi chăng? Tưởng trăm năm giữ tròn đạo hằng, hay đâu nỗi Nguyệt Ba ôm cầm quá biệt. Như vậy mình có biết, kẻo mình chê tôi lang chạ, vợ mình nay mới thiệt chính chuyên, giả đi cúng chùa mà quyến luyện bạn chèo thuyền, dối rằng cầu phật, kết duyên cùng lái phụ. Ngày ra ghe, chèo xa xa một đỗi rồi đem vào ụ, rút sào banh, cặm sào mũi, lái bạn ngủ đê mê; phỉ tình, rồi còn chẳng chịu về, quyết dứt nghĩa phu thê mà đi tuốt. – Ủa, chuyện như vậy sao con Hai mầy thuộc, nếu quả như vầy nhơ nhuốc biết bao? Bộ mình hét mình thêm chanh chớ có lẽ nào, việc dường ấy mà sao ta không biết. – Tôi nghe đà gãn thiệt, không khói ra ai biết lửa cháy đâu, mình không tin, tôi kể đuôi đầu, bày tỏ mấy câu thầy bói. Bà mụ Lưu dấu mình không nói. Lão thầy Lát coi thiệt giỏi quá đi mình. Rằng: Nguyệt ba là gái đa tình, nên mới bỏ mình chẳng nghĩ. Vợ của mình lẽ khi mình coi kỹ, thầy Lát nói Nguyệt Ba dài cầm nên ý chỉ chẳng xong, đã vậy còn mặt đỏ hồng hồng, gái dường ấy đổi chồng chẳng sái, chơn bước chưa đi đà chạy, chưa hở môi thì đã nhạy miệng cười, già bạc đầu cũng chẳng nên người, tuổi biết mấy mươi cho thành nết. Dầu có đem ra mà đập chết, chết ra ma cũng chưa hết thói dâm, hễ già lửa lựa lắm thì lầm, kẻo mình nói tôi sanh tâm biến cải. Nay coi ai bạc ngãi, ai bội phu ai lại phụ tình, đó là cha mẹ thương mình, nên mới cưới cho mình một con tinh làm vợ. Hữu nghe qua mắc cỡ, canh khuya lỡ ở lỡ về. Tưởng Nguyệt Ba giữ trọn lời thề, hay đâu nỗi nó mê đồ khốn. Trách mẹ cha làm rộn, thay đổi chi cho tốn bạc ngàn, bây giờ làm thói lăng loàn, nghĩ lại hổ han biết mấy. Hà Hương xưa tuy dại, nhân mà chưa đem lòng bội ngãi cùng ta, đạo gối chăn nó biết nghĩ gần xa, chẳng phải như Nguyệt Ba bức tức. Vậy thời ta tính phức, cùng Hà Hương như nhứt thỉ chung, cha mẹ dầu ghét bỏ chẳng dùng, nó giữ vẹn chữ tùng thì được mà. Hà Hương nói: “Thiếp nghĩ đến phận chàng thương quá, thấy vậy mà thương chớ biết làm sao ơn trả nghĩa đền, phải chi mà an đặng lòng trên, thiếp nguyện tề my cử án. Như chàng bây giờ chỉ tơ đà đứt đoạn, còn thiếp với chàng khác nào thỏ núp lùm chờ bạn cung thềm, chẳng lẽ mà chàng ở vậy hoài, sợ khi chàng thay áo đổi xiêm, phận thiếp tợ như chim lẻ bạn. Dầu có vậy thân nầy cũng đáng, ngặt một nẻo gần xa chưa hãn lẽ nào đây, sợ nhớ thương liễu ốm mai gầy, sớm tối chạnh niềm tây, lụy ứa.” Hữu rằng: “Phen nầy ắt đôi ta vầy một cửa, dầu mẹ cha lần lựa cũng không ưng, có đắng cay, cay đắng, như gừng. miễn tôi với con Hai nó lòng đừng xao lãng.” Trời đà hừng sáng, Hữu vội vàng giã bạn ra về; Hà Hương bước lại đứng kề, ôm Hữu vuốt về nựng nịu; mũi thì hun, miệng thì biểu, mình ở lại đây chút xỉu nữa sẽ đi. Nghĩ lại thiệt lạ kỳ, giống son phấn muốn gì cũng được; sợ trễ việc nhà muốn bước, sóng khuynh thành xô ngược lộn vô. Hồi lâu Hữu thấy vừng ô, mới lật đật lộ đồ rong rủi. Nói về quan Biện lý, từ ngày họ Đậu khống cáo tìm không ra tin tức Nguyệt Ba, bữa nay ngồi tòa, có giấy phép Vĩnh Long gởi lại. Rằng: ” Làng Long Châu vớt đặng, chiếc ghe bầu trôi nổi giữa dòng sông, coi lại thì ghe không, lái bạn đi đâu mất. Xét không còn một vật, duy còn đầu tóc mượn giắt trong mui; đòi họ Đậu ra cạn tỏ đầu đuôi biểu qua Vĩnh Long nhìn thử.” Họ Đậu trở về sửa sang hành lý, đi qua Vĩnh Long nhìn quả thiêt chiếc ghe rồi, còn người cũng không ra mối. Họ Đậu mướn bạn chèo thuyền về thưa với quan Biện lý. Quan Biện lý dạy giao cho tên Lỏi, còn Nguyệt Ba thỉnh thoảng sẽ tầm, dặn họ Đậu an tâm chắc Nguyệt Ba còn sống. Họ Đậu về nhà thuật chuyện lại cho lối xóm nghe, rồi đưa cái đầu tóc ra cả nhà đều rơi lụy. Hữu thấy đầu tóc của vợ, lại cầm coi nước mắt chảy ngay; Hữu đem thẳng vô phòng, cất để trên đầu năm xăm soi không ngớt.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
www.tangthuvien.vn
 
Trở lên đầu trang