[Việt Nam] Hà Hương Phong Nguyệt (1912)
Chương 1 : Lời chưa cạn Ái Nhơn trao thơ cá, Kể sự tình Anh Cô gởi tình nhân.
Người đăng: Lịch sử Việt Nam
Ngày đăng: 22:37 20-12-2018
.
Cô hổ mặt ngồi không yên chỗ. Nhơn toại lòng mắt ngó quên thôi, cuộc ước mơ từ đấy phỉ rồi, mặt thích chí ối ôi, ỷ ỷ. Kề má hun cho phỉ chí, cha chả là ngon, tay nưng niu chà quí muôn ngàn, đóa trà mi chưa quen giọt mưa chan, đau quá mà!
Đỡ hất lấy tay chàng và háy!!!
“Chàng ngồi đấy thiếp xin phân lại, đừng vội chi mưa vải cửa song, cuộc vợ chồng đừng làm cách bướm ong quen thói. Người dòm thấy chi cho khỏi nói, có phải là phận liễu bồ thẹn với cỏ cây, nghĩa trước mai có thiếu chi ngày, phải tình trăng gió sao nay mai rời rã?”
Nhơn nghe mấy lời nàng phải quá, khó mà toan vạch lá bẻ hoa, chàng nói rằng: “Tình nặng mới là, song cũng thôi người ta chẳng lạ. Không mấy thuở phụng loan vầy một ngả, muốn phân trần cho tỏ dạ trăm năm, ngồi giữa nầy thẹn mặt tri âm, xin vào trướng đôi ta trò chuyện.”
Cô ngỡ thật chẳng đợi mời nhiều tiếng, theo chơn chàng vào chốn phòng loan, nàng đưa tay ra vén tấm màn, thấy trướng nội vẻn vang cha chả. Bên vách phấn tượng tranh nhiều kiểu lạ, dựa tường vôi đờn địch chả thiếu nghề, giữa bàn tròn quanh để Ton-ne (Thonet), tả hữu có bíp-phê (buffet) tủ kiếng.
Quạt mây phạt chéo màn xao xuyến, hơi gió bay nực mũi dầu hoa, giường ruột gà mùng trắng tợ tuyết sa, nệm cao lót trải dra (drap) rất sạch. Gối tai bèo phau phau xem phải cách, mền tuội khoe màu bạch rất xinh. Gái thú quê thấy vậy khoái tình, dầu lòng sắt dạ đinh cũng bở.
Ái Nhơn đặng vui mầng một thuở, dẫu chưa nên chồng vợ cũng rằng, một phút may thỏ gặp bóng hằng, dám sanh cuộc Minh Hoàng du cung nguyệt, tình thương biết bao mà kể xiết. Thầy tu ôi, kinh kệ chi cho thiệt phận mình, nếm thử mùi ngọt dịu thế tình cho thỏa chí bình sinh một kiếp!
Kề đôi má, chàng chàng thiếp thiếp, gối luồn đâu phải dịp giao đầu, hèn chi nay lời tục có câu, thương chẳng lựa là cầu mà dễ, miệng đàm đạo như thầy tu đọc kệ, tay lần mò như thầy bói lần song, hết hồi vui nựng nịu lưỡng long. Nhơn mới dục lòng trăng gió, chưa từng chịu mưa mây đánh đổ, trà mi đâu mở lộ ong đi.
Cô rằng: “Như vầy đây cũng nghĩa tương tri, chàng chớ vội làm chi thới quá.”
Nhơn thẹn mặt kiếm lời giả lả, rằng: “Có gió trăng vàng đá mới ra, lại thêm cuộc tang thương ai biết đâu là, sợ một nỗi trăng già xe trái. Kiều với Trọng biết bao tình ân ái, tiếc với nhau lạc bước rồi nghĩ lại mà thương, tưởng đá vàng tìm khắp thôn lương, nàng cũng đã bướm chường ong chán.
Nghĩ vậy nên e cuộc chung tình mình xao lãng, cũng vì lòng tưởng bạn trăm năm, phải nào ham vui cuộc ăn nằm, mà nàng phải hẹp tâm ngăn cản. Tôi mà muốn được vậy rồi, hồng quân có ghét ghen chẳng đáng. Sâm thương đành, nghĩa bạn chẳng phai, may mà phước hồng soi nàng đặng thọ thai, tình máu mủ để ngoai ngải trượng.”
Anh Cô rằng: “Lời êm thuận giá đành vô lượng, tâm ngàn tư thương tưởng khó cầm, nhưng mà, việc tóc tơ là việc trăm năm, lý đâu lại âm thầm sao phải. Chàng nghĩ mà coi, hổ sanh làm phận gái, chữ tiết trinh ai lại bỏ trôi, tưởng tình nhau vậy cũng đủ rồi, vàng đá thiếp đền bồi có thuở.
Nếu mà chữ trinh ấy để cho lầm lỡ, đuốc hoa sau mắc cỡ với chàng, chỉ hồng nầy đôi lứa đã vương mang, vậy thì làm cho Nam Giáng với Đông Sáng nở mặt. Vẫn biết cuộc phong vân bất trắc, đối diện mà chưa ắt tương phùng, biết vậy thì chàng phải mau sáu lễ sẵn dùng, cho hết nỗi tình chung lầm lỗi.
Chàng coi lấy đó mà coi, một lời nguyện Nguyệt Nga không dời đổi, sợ trai như Vương Bội mới là, sắc cầm nầy đặng hiệp một nhàn, thiếp dám tiếc chi mà phòng vội. Tưởng nhau lắm mới chẳng nài sự lỗi, phận gái sao đêm tối nằm đây, nghĩ bấy nhiêu đủ biết tấm tình nầy, lựa là phải mưa mây đánh đổ.”
Lời chưa cạn bóng hồng đã lố, khiến cho chim xanh thôi thoát về rừng, tình thì dày mà đêm vắn quá chừng, Ái Nhơn giận muôn ngưng mặt nhựt!!!
Anh Cô mới chỗi mình lật đật, gác tình thương ngơ mắt xây lưng, giã Ái Nhơn thượng lộ đề chừng, kẻo trễ bước mẫu thân chờ đợi “Việc giai ngẫu chàng mau bước tới, cho ra bề nhơn ngỡi với nhau, đó với đây dạ đã một màu, thuyền quyên với anh hào phải lứa. Chàng chớ khá nay lần mai lựa, mỏi lòng đây càng bữa càng trông, chẳng phải tuồng bướm bướm bông bông, mới hiệp đó phụ lòng nhau đó.”
Nhơn nghe nói lòng sầu võ võ, chan đôi tròng mắt ngó dàu dàu: “Bậu chớ lo kim bạc phụ tơ đào, một lời kết thâm giao chẳng đổi. Qua với bậu tuy chưa chăn gối, xích thằng đà buộc mối chỉ tơ, buồn là buồn cơn xẻ hai kẻ đợi người chờ, thảm là thảm lúc lòng mơ dạ ước.Dầu sao cũng Kiều Ô gặp thước, đến điều nào Mai Trước chẳng xa, nàng có lòng gắn bó cùng ta, nguyện kết tóc đến già cùng bạn.
Lát … xe song mã mi mau khá thắng, đưa Ái nương đi thẳng tới nhà, khốn thay! Đượm giọt hồng tuông giọt huỳnh hoa, gác tủi thảm cơn sầu đà dồn vập.”
“Chàng ôi, còn thương tưởng hãy lấy còn trông gặp, thiếp khuyên chàng ngơ lấp mạch sầu, một lời nguyền chứng có cao sâu, ai đen bạc búa dao phân xử. Mặt giã từ quân tử, cho tiện nữ trở về.”
Cho hay nết hường nhan không thuốc mà mê, xe khuất bánh Nhơn dầm dề hột lụy.
Vó cu thoát Anh Cô ngồi nghĩ, nghĩ mà mầng ngư thủy sánh duyên; nhớ khi đi xem cảnh rất phiền, nay sao lại như miền tiên động. Hoa vòng trổ màu hồng lá rụng, chim chuyền nhành tiếng cũng rảnh rang, kìa mục đồng cõng chạy nghinh ngang, nọ con gặt hò khoan hố huội. Đi, về, tính cách khôn mấy buổi, phong cảnh xem dời đổi biết bao hèn chí tục rằng: người buồn cảnh có vui đâu, người vui sầu thảm cảnh âu sầu thảm.
Về tới cửa Anh Cô vào bẩm, rằng: “Ái Nhơn bị cảm thương hàn, nay xem chàng cũng đã đắc an, nên con trẻ giã chàng phản bộ.”
Mụ dì nghĩ: “Con nầy mà ngủ dưới đêm nay, có lẽ cùng chàng trăng gió, lý nào không thổ lộ nguyệt hoa, lửa gần rơm không cháy cũng nám mà”, sợ nên dấu mụ già chẳng nói.
“Nầy con, con ở dưới trong cơn tăm tối, Ái nhơn không tỏ nỗi nào sao, mẹ tưởng khi vườn hồng con dầu khéo ngăn rào, chàng cũng trỗi giọng cao giọng thấp, chớ lẽ nào không? Khuyên trẻ dại mựa đừng e ấp, mẹ không lòng nê chấp chi đâu, con mà gặp Ái Nhơn mẹ cũng nên cầu, người đáng mặt anh hào xử thế.
Mẹ rõ thấu tất lòng con trẻ, vậy con mau cạn kể đầu đuôi, từ Ái nhơn mà khởi sự tới lui, mẹ soi thấu khúc nôi trong đục. Ái nhơn muốn kết niềm tơ tóc, nên không lời ghẹo chọc tới con, lễ vật thường đem tới chiều lòn, đặng tỏ tất lòng son với trẻ.
Từ Lát tới nói chàng không an quới thể, mẹ biết rằng là kế Ái gia, muốn cùng con phu phụ hiệp hòa, nên làm như thế con đến nhà trò chuyện. Mẹ cũng biết con có tình lưu luyến, nhưng mà con giữ vẹn chữ trinh, bởi vậy mẹ giả đò không rõ ý hình, để cho trẻ tới đó tỏ tình giao kết. Vậy con trẻ khá mau khai thiệt, cho mẹ già tinh việc lứa đôi, đừng để cho trầu nọ xa xôi, vung nọ xa nồi rồi trách.”
Nghe phân cạn ngọn nguồn minh bạch, nghĩ cái duyên kim thạch lạ lùng, chuyện mình làm đã kín hơn mùng, ai bày tỏ khúc trung như vậy. Không thể chối Anh Cô liền cúi lạy, cùng mẹ già phân giải sự tình: “Vẫn biết rằng phận gái lộ trình, khó mà giữ chữ trinh cho đặng. Lời giao kết cùng chàng đã hẳn, điều nguyệt hoa con chẳng có đâu, chàng hứa dùng sáu lễ đến cầu, cậy mai mối rước dâu Nam Giáng. Vì trước đã mến yêu sĩ tráng, nên trộm giao vầy bạn ở đời, tình thương nhau thật chẳng muốn rời, lẽ đâu lại quên lời đổi dạ.”
Mụ rằng: “Vậy thì từ đây trẻ phải thinh lòng vàng đá, đừng chuyện trò cũng chả viếng thăm, để mẹ lo tính cuộc trăm năm, chớ lui tới âm thầm chẳng tốt. Mẹ biết chắc không mai thì mốt, chàng nhớ thương cũng tuốt tới đây, con phải làm như vậy, … như vầy … mới khỏi lỡ bực dạy cầm sắc.
Nghĩ chẳng lẽ mà chàng nín bặt, vắng mặt thì cũng ắt có tin, hễ có thơ bàn luận sự tình, con mau khá đem trình với mẹ. Để mặc mẹ liệu lời định lẽ, liệu làm sao cho đôi trẻ sánh vai, mới xứng cho gái sắc trai tài, để lần lựa duyên phai phấn lạt.”
Kể từ buổi đôi đàng phân Nam bắc, Ái Nhơn rầu ruột thắt đòi cơn, ngày những đêm mơ ước sự dươn, sớm cùng tối lòng dường muối xoát. Vẫn biết một lời nguyện trăm năm ghi tạc, nhưng mà biết bao giờ giao mặt bắt tay, khốn thay, mãn ra vô mơ tưởng cái liễu mày, ngồi đứng luống trông hoài ngọc cốt.
Ái Nhơn mới ngụ tình cất bút đề thơ trao tỏ chút tấm lòng, “Năm Lát ôi, Phùng Xuân ôi, có tưởng qua mựa chớ nệ công, bay tới đó giao phong tin gió.”
Bẩm cậu: “Phận tôi tớ dám đâu than khó, có khó thì chịu khó mới khôn, một mai dầu bàng điểu ngộ lam phong, lẽ đâu cậu phụ lòng tôi tớ. Cậu mà chẳng giúp đặng nên nhà nên cửa, thì cũng là giày vớ lược khăn, tôi chẳng phải là thằng nói dóc kiếm ăn, mượn sức xích thằng đưa đẩy.
Tôi khôn dại cậu đà ngó thấy, chẳng cần chi tôi phải khoe khoan, cha chả, khó như bựa nàng Ban, tôi nói càng cũng đặng. Huống chi mợ với cậu đã chuyện trò đêm trắng, lý đâu nay chửi mắng tôi sao, lại thêm tôi có công cực khổ biết bao, đưa tước lẽ nào chẳng tưởng.
Tôi lên đó ba tấc lưỡi vào ra độ lượng, chỉ tơ sao cũng cướng chẳng không, cậu bẻ cho tôi ít đồng, tôi rước mợ chạy dông trở xuống.”
“Thôi đi mi đừng toan nói bướng, Anh Cô mi tưởng như ai, đã khôn ngoan lại có trí dày, nào phải kẻ mua mai bán tối. Sự hao tốn ta không tiếc luối, song ta e moi nói bối lấy rồi, chừng về đây không đặng thì thôi, không phép thường bồi chi gã. Chớ nhiều tiếng xuôi lòng ta buồn bã, mựa kiếm điều dối trá ngỗ ngang, mi mau khá sửa sang, kiếp lên đàng kẻo trễ.
Trao thơ nhạn mi ráng mà kể nể, kể sự tình nặng thể núi non, ngày thẩn thơ ăn chả biết ngon, đêm dật dựa hao mòn hình vóc. Một trông gặp tỏ niềm tơ tóc, kẻo mà ta trần trọc canh khuya, muốn làm sao như khóa với chìa, kẻo mà sợ nỗi kim lìa chỉ.”
“Dạ dạ, cậu trở vào an nghỉ, để mặc tôi trực chỉ đàng chim, tôi nói thiệt, chừng nào cho đá nổi vòng chìm, thì mới sợ chỉ kim rời rã.”
Nhơn vào cửa Lát bèn vội vã, bước lên xe song mã giơ roi, giải nắng mưa bao nại công tôi, miễn là đặng đáp bồi ơn nặng. Vái bà nguyệt xe săng chỉ thắm, cùng ông tơ buộc vấn mối hồng, đi chuyến nầy mà giai ngẫu tính xong, sao cũng đặng thưởng công chẳng nhỏ.
Đang bàn luận bỗng đâu tới ngõ, Lát gò cương chơn nọ bước vào, Anh Cô trong lật đật ra chào, mụ dì hỏi Lát “Đi đâu đó vậy? Cơn rảnh việc em đảo vô phường rẫy, hay là Ái gia có dạy chuyện chi, mau nói ra cho mụ tường tri, kẻo mà mụ luống nghi tấc dạ?”
Lát rằng: “Thưa dì, chẳng có điều chi lạ, đương con thong thỏa đi, sẵn dịp ghé thăm dì, cùng cô hai luôn thể.”
Miệng thì nói vậy mà nháy lia nháy lịa, liếc bên kia rồi liếc bên này, cùng Anh Cô tỏ ý riêng nầy, bởi sợ mụ dì hay nói trớ. Anh Cô thấy giả hình mừng rỡ, rồi tỏ lòng hớn hở cười mơn, nhỡ thật tình nào rõ thiệt hơn, năm Lát mới trao phong thơ tín.
Tay vói lấy Anh Cô làm tỉnh, hỏi lớn rằng: “Thơ kỉnh cho ai?”
Mụ dì nghe liền biểu tương lai, năm Lát đứng mặt mày xanh lét!
Mụ rằng: “Năm, em phải mau nói thiệt, cho qua rõ hết ngọn ngành, vậy chớ ai biểu em làm nhạn đem tin, xui những việc tệ tình chi đó? Em cũng biết phận mẹ góa con côi nghèo khó, nhưng mà chưa từng ra dựa ngõ đứng đường, dễ lòng nào em chẳng biết thương, khiến chi chuyện hoa tường liễu ngõ?”
Lát nhắm thế không phang nói đổ, chẳng lẽ mà đứng đó hàm thinh, túng phải khai mọi nỗi sự tình, rằng: “Chẳng phải tại mình muốn vậy, Kể từ bữa cậu tôi tới thấy, thấy Anh Cô lòng lại phải lòng, muốn cùng nhau kết nghĩa vợ chồng, nên mới gởi một phong thơ nhạn.
Gẫm như cậu tôi vậy cũng là xứng đáng, nên tôi mới ra lãnh mạng lập công, may sau dầu săng sợi chỉ hồng, cậu tôi há phụ lòng tôi tớ. Nay việc kín đến đều vỡ lỡ, xin dì thương mựa chớ chấp nê, dì nghĩ đó coi, ngô đồng dầu gặp phụng hoàng thê, thì cũng đặng vui bề sum hiệp.”
Mụ rằng: “Ái gia thiệt nghĩ suy chưa kịp, dốt chi câu hồng diệp xích thằng, nếu mà chàng quyết đạo gối chăn, lựa là phải kiếm đàng dấu ngược. Nay mụ đà bắt được, thôi cũng đừng dấu trước lòi sau, Anh Cô, khai phong đọc cho mau, mẹ nghe thử lẽ nào sẽ tính.”
Anh Cô liền vâng lịnh, năm Lát đứng nín khe, mụ dì thì ngồi lóng tai nghe, nghe thử việc thơ đề chơn giả.
Thơ rằng:
“Buồn cha chả, ra vào buồn cha chả,
Thảm bưng khuâng, ngồi đứng cũng bưng khuâng,
Buồn vì dươn đôi giọt không ngưng,
Thảm vì ai nỗi rưng rưng hột lụy,
Lòng những ước một đoàn ngư thủy.
Dạ chí lăm kết chỉ xe dây,
Ngày những đêm mơ tưởng cái liễu mày,
Sớm cùng tối ái hoài trang ngọc cốt,
Chưa rõ phải Xích thằng đà vấn buộc,
Hay là Nguyệt lão theo ghẹo cuộc gió trăng,
Tuy đôi ta chưa có gối chăn,
Song một tiếng cũng rằng vàng đá,
Kể từ bữa giăng tay phân hai ngả,
Đau đớn dường như cá ngại đôi đàng,
D0e6m năm canh thổn thức mơ màng,
Ngày sáu khắc không an tấc dạ,
Làm sao đặng vui miềm lòng bá,
Kẻo còn lo đôi ngã Sâm thương.
Muốn tạm dùng sáu lễ phô trương,
Nhưng còn ngại xuân đường chẳng tưởng.
Thế nào tiện xin nàng liệu lượng,
Phang nào hay chỉ vướng tơ vương,
Bởi vì ta luống những nhớ thương,
Nên mới gởi một trương tâm sự,
Tay hào kiệt kề vai thục nữ,
Nghĩ cho rằng thiên tứ lương duyên,
Trai anh hùng sánh gái thuyền quyên,
Xét cũng bởi tự nhiên giai ngẫu,
Niều tâm sự nàng đà hiểu thấu,
Xin nghĩ tình lai đáo gia trang:
Gặp mặt nhau bày tỏ đục trong,
Cho phỉ thửa tấm lòng hoài ái.”
Ái Nhơn ký hứa.
Đọc vừa dứt mụ dì liền nói lại: “Ái gia sao khéo ngại bụng ta, kể từ khi chàng bước tới nhà, thấy tánh nết ôn hòa mụ cảm. Cảm thì cảm vậy chớ xét đến phận càng thêm the thảm, thảm hàn vi chẳng dám nói ra, nay chàng dầu muốn hiệp một nhà, há chẳng đẹp mặt già với thế. Mụ bao nỡ phụ lòng con rể, mà chàng phải làm theo thói trẻ vườn dâu;
Anh Cô, chớ nào bút chỉ ở đâu, con khá mau hồi tin. Rằng con vâng mẫu lịnh, kỉnh lời cung thỉnh Ái gia, chàng mựa từ gót ngọc tới nhà, đặng cho mẹ phân qua sau trước.
Năm Lát vì em đã có lòng mai ước, quyết đem đàng cho thước ngộ Kiều ô, phong thơ nầy là thơ của Anh Cô, kính gởi cho Ái Sĩ. Em khá tua gắng chí, trao thơ tỏ ý cùng chàng, nếu chàng mong kết nghĩa đá vàng, Anh Cô nguyện keo san gắn chặt. Song chàng phải đáo lai thảo thất, cho đôi đàng giáp mặt luận bàn, rằng qua đây có dạ thương chàng, muốn vùa giúp phụng laon kết cánh. Chàng mựa chớ nghi lòng xa lánh, mà làm cho ngôn hạnh phản nhau, một lời chàng đã kết thâm giao, muôn thuở chớ lãng xao lòng sắt.”
Bây giờ đây năm Lát mới ngước mặt lên cao, nghe mụ dì dặn bảo trước sau, l4nh thơ nhạn mau mau từ giã. Vội vã trở bánh xe song mã, về dọc đường nghĩ sạ quá hay, hèn chi tục nói rằng người có duyên gặp rủi cũng hóa may, kẻ vô phước lúc may day lại họa. Mình lãnh bốc việc nầy tưởng đã, có dè đâu đặng khá quá mà, chuyện tóc tơ vui dạ chủ nhà, lo chi chẳng thưởng ta nhiều ít. Ba tấc lưỡi tự tình xê xích, không dại rồi mặc thích bớt thêm, nói rằng mình tính việc đã êm, chắc tơ như nêm đóng chặt.
Vó cu qua thấm thoát, hết ngõ tắt đường quanh, Lát còn đương bàn bạc sự tình, phút đâu tới nhà mình rồi đấy.
Ái Nhơn ngó thấy, chơn vở chạy bon bon, hỏi việc chàng có đặng vuông tròn, Anh Cô dạ có còn tưởng đoái?
Lát nghe hỏi chẳng thèm nói lại: “Để vào nhà phân giải nguồn cơn, đi chuyến nầy công khó nào hơn, cũng vì một sự dươn của cậu.”
“Phải, công khó ấy ta đà rõ thấu, vậy mà thành giai ngẫu cùng chăng? Hay là mi làm cho e mặt ả hằng, để thỏ luống ước trăng chờ bóng?”
“Thôi đi cậu, nhiều chuyện nghĩ âu trặc họng, tại vì đâu xét cũng chẳng ra, tưởng cậu nên nàng mới tới nhà, trò chuyện trót canh gà với cậu. Ngỡ loan phụng một nhà hòa hảo, dè đâu, trao bức thơ nàng lậu sự tình, chẳng phải nàng ngơ mặt không nhìn, song nàng chẳng hàm thinh dấu tín.
Hỏi thơ nọ có điều chi kín, thơ của ai kỉnh gởi cho ai, dì ngồi gần nghe đã tạng tai, tôi chết điếng như say cô-nhát.”
“Thôi rồi, công việc ta phú thác, ra cớ sư ni còn chi mà kể chắc tình chung, ấy mới quả vô duyên đối diện bất tương phùng, thuyền quyên với anh hùng phân lưỡng lộ.”
“Cậu mựa vội than câu tế ngộ, e đến điều hơi giá bặt lòng đau, tuy mưu kia đã lậu mặc dầu, song chẳng đến đỗi nào mà sợ.”
“Sao lại không sợ … a .. Lát?”
“Vì tôi đã kiếm lời nói đỡ, may dữ cậu.”
“Chi mà mi gọi may?”
“May là có lỡ ra duyên nọ mới thành, chỉ hồng đà bén vướng tơ mành, lo chi nợ ba sanh thoát khỏi.”
“Thôi mi đi, đừng múa mỏ khua môi nói giỏi, lậu tâm tình ai gọi rằng xong, dẫu mà cho nàng có nặng lòng, lịnh trên ắt cũng không khứng chịu.”
“Thưa cậu, lẽ ấy tôi đà sớm liệu, bởi cậu chưa có hiểu nên nghi, dụng mĩ từ tôi bẩm cùng dì, nên dì đã nghĩ vì đến cậu. Bây giờ dì hãn thấu, lòng thương cậu bội phần, cũng muốn cho đôi lứa đặng gần, dì có dạy phân trần cùng cậu.
Dì lại dặn, cậu phải mau lai đáo, giáp mặt rồi đàm đạo sự duyên, dẫu mà trời không xui rể thảo gặp dâu hiền, nhơn định cũng thắng thiên mà chớ.”
“Dẹp mi đi, công việc đà vỡ lỡ, mi còn gạt ta cho mắc cỡ nữa sao? Ta nói thiệt duyên nợ nầy mà có lãng xao, cũng tại bởi mi vào khuấy phá.”
“Cậu chớ tưởng rằng tôi xả trá, sau ăn năm thì đã muộn rồi, tôi muốn cho loan phụng sánh đôi, lẽ đâu khiến lôi thôi cầm sắc. À, quên đi nữa tôi sẵn có phong thơ làm chắc, cậu xem qua lở-u đắc chơn tình, của Anh nương kỉnh gởi hồi tin, mắc nhiều chuyện quên trình với cậu.”
Nhơn nghe nói thơ thậm hẩu, như vầy đây mới thấu giả chơn, phong cầm tay chưa rõ thiệt hơn, mừng lộn sợ lòng Nhơn hồi hộp. Thơ chưa đọc mà chàng đã khớp, không thấy đàng, mắt chớp hào quang, lại trách rằng: “Thơ từ gì mà không lối không hàng, viết chữ nằm ngang nằm dọc. lại thêm không bỏ dấu mới biết sao mà đọc hay là Anh Cô ghẹo chọc ta chăng?”
Lát biết xem mới cất tiếng nói rằng: “Thơ như vậy còn không ngay hàng ngay chữ. Bộ cậu mừng quýnh quíu quên hết vần quốc ngữ, rồi trở ra trách cứ người ta, gái như Anh nương lội lạc tài ba, nghe nói tiếng Lang sa giỏi quánh mà!”
Nhơn nghe nói hổ ngươi, mới tỉnh, ngó Lát rồi thủng thỉnh xem thơ, cuộc mừng vui chung ở một tờ, cũng vì sợi tóc tơ nên mới.
Thơ rằng:
“vâng lịnh mẹ thơ nhàn gởi lợi,
Tiết nghĩa chàng tin cá nhắn sang.
Trước là phân cho rõ đá vàng,
Sau tỏ nỗi tào khang chi đạo.
Tuy chưa đặng tác thành giai ngẫu,
Chớ cũng rằng kết cấu trái oan,
Một lời giao thệ hải minh san.
Trăm năm nguyện keo sơn gắn chặt.
Kể từ bữa phân tay nam bắc,
Lòng ước mơ cầm sắc Bén duyên.
Kể từ khi chung gối Tây hiên,
Dạ hằng tưởng bách niên phu phụ.”
Cớ ấy nên:
Năm canh luống mơ màng chẳng ngủ,
Sáu khắc sầu võ võ không an.
Vừa may đâu thiếp gặp tin chàng,
Phước lại đặng thơ nhàn đem tới.
Mừng chưa kịp họa đâu khéo gởi,
Vui không cùng rủi lợi thình lình.
Năm Lát không dè lúc trao tin,
Thân mẫu mới thấu tình ân ái.
Phận làm mẹ thường hay nghiêm dạy,
Lẽ nào dung dưỡng gái lăng loàn,
Đạo làm con tứ đức chẳng toàn,
Lý đâu dám ngỗ ngang với má.
Ra cớ đỗi ni:
Sự mai ước tưởng đà cũng đã …
Cuộc lứa đôi rời rã còn chi!
Còn chi trông tương kiến tương tri,
Hết thế đợi phụ tùy phu xướng,
May nguyệt lão xe săng còn vướng,
Xui mẹ già độ lượng hải hà,
Thấy chàng than ước hiệp một nhà.
Nghe tiếng thở thương mà bỏ quá,
Mẹ rằng: Đạo tào khang là giềng cả,
Nghĩa phu thê là sạ tam cang,
Xích thằng dầu buộc trói hai đàng.
Bạch phát há cản ngăn đôi lứa,
Vì Túc Đế trước đà lần lựa,
Thiên Thành xui hai đứa trái oan,
Mẹ lẽ nào nghịch ý tạo đoan,
Làm đến đỗi phụng lao rẽ cặp.
Nhưng mà, mẹ chẳng muốn âm thầm khuất lấp.
Phải ra bề sửa trấp nưng khăn,
Bởi mẹ e đen trắng khó phân.
Mẹ mới dạy: Mời chàng đến tố trần hắc bạch.
Như chàng có giữ lòng kim thạch.
Xin mựa đừng chấp trách khó khăn;
Chàng nhẫn dầu đẹp phận gối chăn.
Thì chớ khá than rằng cực khổ,
Da sinh nợ khó mà lựa chỗ,
Bến mười hai đâu rõ đục trong.
Hễ nữ vi duyệt kỉ giả dung,
Tưởng cùng chẳng tại lòng quân tử.
Thương chàng bởi tánh tình cư xử,
Mến chàng vì trí tự cao sâu.
Phải nào yêu sự nghiệp chàng đâu,
Phải nào chuộng nơi giàu nơi có.
Như Đăng nọ quyết vầy cùng Đó,
Thì chớ rằng Trăng tỏ hơn Đèn.
Nếu ước cho Muốn hiệp với Sen,
Khuyên đừng nệ khó hèn khác bực.
Việc tâm sự thiếp đà tỏ thật,
Có tưởng tình thảo thất mựa từ,
Chớ ngại nàng công uổng danh hư,
Thiệt phận thiếp, Đêm tư ngày tưởng!”
Anh Cô tiện nữ.
Nhơn đọc dứt Lá liền xin thưởng: “Đó, cậu thấy không? Nếu không tôi liệu lượng chẳng thiền, cho hay rằng thiên tứ lương duyên, cũng nhờ có rôi siêng mới được.”
“Thôi mi đi, phải chăng có xích thằng buộc trước, thì còn chi ô thước tương phùng, mi làm cho lậu tiếng bướm ong, còn dám kể tất công mai mối? Lẽ phải thì ta làm tội, song nghĩ tình tha lỗi cho mi, kể từ đây tao biểu chuyện gì, mi phải ráng mà ghi vào dạ.”
Xong chưa! Cậu nầy kho trong thá, bắt đặng cá quên nôm, công khó mình lặn lội đêm hôm, đà trút sạch theo giòng nước chảy, hèn chi tục xưa còn để lại, chẳng chi mà thiệt hơn mai, buổi chưa xong biết tấc công dày, chừng rồi việc vặn nài bẻ ách.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện