[Việt Nam] Bà Chúa Chè

Chương 1 : Cô gái hái chè

Người đăng: Lịch sử Việt Nam

Ngày đăng: 11:02 29-08-2018

Giữa khúc đường từ huyện Tiên Du về tổng Ném[1], bây giờ người ta còn thấy một cái cầu bắc qua một quãng nước, thông hai cánh đồng chiêm. Cầu ấy bắc theo kiểu "thượng gia, hạ kiều" (trên nhà, dưới cầu), khum khum như một cái nhà dài, uốn mái, uốn xà, uốn rui, vắt ngang một quãng nước màu mỡ cua, nối hai đoạn đường ngoằn ngoèo cuộn khúc từ đồng làng Bịu[2] đến đồng làng Ném. Những tấm gỗ lát cầu, nguyên lúc bắc là những tấm gỗ chỉ xẻ bằng cưa chứ không bào giũa gì cả, thế mà bây giờ cũng đã nhẵn hết. Chỉ còn những tấm lát dưới hai dẫy ghế ngồi ở hai bên vệ cầu, chân người không đụng tới, là còn mang lờ mờ dấu cưa, những mép gỗ còn giữ theo khuôn khổ thân cây, nhắc lại cho khách tỉ mỉ hay xem xét tò mò rõ rằng xưa kia, gỗ pha đến đâu đem ra làm tươi đến đó. Cầu ấy bây giờ gọi là "Cầu Vồng". Gọi là "Cầu Vồng", chẳng phải vì thân nó uốn tròn như cái cầu vồng trên trời, mà do một sự tích của người bắc cầu. Cầu ấy bắc từ năm Chính Hoà thứ 23 (vào năm 1702) đời vua Lê Hi Tông. Nguyên về mấy đời vua Lê Chân Tông, Thần Tông, Huyền Tông, Hi Tông, Dụ Tông[3], ở làng Bịu có một họ to nổi tiếng về đỗ và làm quan. Nói theo kiểu cổ thì họ ấy là một vọng tộc[4] vùng Kinh Bắc về đời Lê Trịnh. Họ ấy là họ Nguyễn Đăng. Họ ấy nổi tiếng từ khi hai anh em ông Nguyễn Đăng Cảo và Nguyễn Đăng Minh cùng đỗ đại khoa một khoa, anh đỗ Thám Hoa, em đỗ Hoàng Giáp. Rồi nối nghiệp nhà, hai anh em ông Nguyễn Đăng Tuân và Nguyễn Đăng Đạo lại cũng đều đỗ đại khoa cả. Hiển hách nhất là ông em, ông Nguyễn Đăng Đạo, đỗ Trạng Nguyên khoa Quí Hợi, niên hiệu Chỉnh Hoà thứ tư đời vua Lê Hi Tông Chương hoàng đế, ông Đạo sau làm tới Thượng thư, hàm Đông Các đại học sỹ, tước Quận công, nhưng ở nơi thôn ổ, vì trọng khoa[5] hơn hoạn[6]nên vẫn gọn là ông Trạng Bịu mà cái cầu ông bắc, luôn thể cũng được dân chúng gọi là Cầu Vồng Trạng Bịu. Nguyên ông chết mất một người con gái ông rất yêu quí. Vợ ông vì thương tiếc mới cho mời đồng thiếp đến để đánh đồng thiếp xuống âm phủ tìm con. Trong giấc ngủ nồng do thày thiếp ru, bà gặp con, hỏi rằng: - Cha mẹ không có tội lỗi gì, sao con chẳng ở cùng cha mẹ, lại bỏ mà đi. - Kiếp này thì không có gì, nhưng kiếp trước thì tội bà to lắm. Tôi mượn cửa mà ra, thác sinh vào nhà bà mười mấy năm là để báo cái oán tôi đối với bà từ kiếp trước. Nay tiền oan nghiệp chướng đã đền bù, tôi với bà bây giờ "nhĩ ngã vô thù"[7]. . . Trong mười mấy năm tôi ở nhờ cửa, xét ra kiếp này ông bà thật trung hậu tử tế. Nhưng phải chuộc hết tội và nợ kiếp trước thì sau đây mới mong thanh thản mọi bề được. - Làm sao mà chuộc được tội kiếp trước? - Nói là tội thì không đúng, nợ thì phải hơn. Kiếp trước ông nhà ta có nợ của một người một món tiền hai ngàn quan quí. Người ta vẫn rắp vào cửa để báo oán đó, hiềm vì nhà ông bà vận đương đỏ nên chưa vào được đó thôi. Sau đây lỡ ra - ai tránh được cái lỡ - lỡ ra phạm một điều gì, một cái lỗi con con nào thì oan tiền trái đến ngay. Nhờ trời ông bà hiển đạt, tiền của chẳng thiếu gì, sao chẳng đem ra làm một việc gì phúc đức như làm chay, làm chùa, bắc cầu, phát chẩn. . . Làm gì cũng được, miễn là có hơn hai ngàn quan quăng ra mà thôi. Bà dậy nói chuyện với ông. Ông liền chọn một việc trong mấy việc phúc đức: ông bắc cái cầu năm gian. Nguyên hai cánh đồng tổng Ném và tổng Bịu cách nhau một quãng nước sâu. Quãng nước ấy, nếu lấp đi thì tiện việc đi lại, nhưng không lợi cho việc lấy nước làm ruộng cho mấy tổng gần đấy, nhất là tổng Ném và tổng Bịu. Thành ra con đường đành cứ để cắt khúc ở giữa. Ở quãng ấy, người vẫn phải bắc một cái cầu tre nối hai khúc đường lại với nhau. Ông Nguyễn Đăng Đạo liền bỏ ra hai ngàn tám trăm quan quí bắc cái cầu năm gian thay cho dịp cầu tre bấp bênh nguy hiểm. Cầu ấy, theo tục của tín đồ đạo Phật, là cái "Cầu Vồng" để đi qua mà thoát tội. o0o Năm ấy là năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 đời vua Lê Hiển Tông Vĩnh hoàng đế, nhà chúa vào năm thứ năm đời chúa Tĩnh đô vương Trịnh Sâm, lịch tây vào năm 1771. Một buổi trưa tháng năm, giữa mùa hạ. Hai bên cầu, hai cánh đồng ruộng chiêm nước ngập liền bờ, chạy thẳng tít đến lận chân núi Nguyệt Hằng và núi Chè. Giá không có những ngọn cây gáo nước lơ phơ trên mặt nước để phân bờ ruộng, giá không có mấy con trâu đương bừa bì bõm, nước chấm đến bụng, thì chiếc cầu và con đường người ta tưởng như vắt ngang một cái hồ rộng hoặc một cánh đồng lụt ngút ngàn. Trong cầu, một bọn vài chục người đương ngồi nghỉ mát, quang gánh không vứt bừa bãi giữa sàn cầu. Giữa cầu một bà già đương ngồi múc nước và chan canh riêu vào bún bán cho khách đi chợ về giải khát và đã đói. Ngoài ruộng, mặt nước mỡ cua hắt ánh nắng hạ đầu mùa, đưa lên toàn hơi lửa. Bọn ngồi trong cầu đều là bọn người tổng Ném đi bán chè ở chợ Lũng Giang chân núi Nguyệt Hằng về. Thấy bọn họ thiếu một người, bà già bán bún hỏi: - Sao hôm nay chị Huệ xóm Chè chưa thấy về? - Chúng tôi có thấy hắn ở chợ đâu. - Sao thế nhỉ? Sao hôm nay chị ta không đi chợ thế nhỉ? - Dễ thường hắn đi bán chợ chiều. - Bán chợ chiều thì chỉ rẻ như bèo! Không, dễ nó ở nhà. Lại bố hay em ốm hẳn thôi. - Tột nghiệp con bé! Một thân lo cả trăm chiều. Mới tí tuổi đầu đã vất vả. Thế mới biết không gì bằng có mẹ. Bố nó là học trò lại gặp cảnh gà trống nuôi con, thành ra con bé phải gánh vác cả. Sáng mờ đất đã phải lên đồi hái chè rồi về thổi cơm. Cơm xong đi bán chè, trưa về nộp tiền cho ông Quản, rồi thì băm bèo nấu cám, vá áo,. . . thôi trăm công nghìn việc. Con bé cũng ngoan. - Rồi thì trời đền công cho. Bé vất vả rồi sau lớn mới sướng, như thế càng hay. Con bé tuy còn bé, nhưng trông người khá lắm. Nhất là cái dáng đi, cái miệng cười thật là ung dung như bà chúa. Ra ngoài, tôi đố ai biết nó phải lo nghĩ. Đến đấy, một bà lão ngẫu nhiên nhìn ra ngoài đường rồi nói: - Kìa! Ai như hắn kia kìa. Mọi người nhìn: - Phải rồi, cái dáng ung dung kia. . . Một lúc sau, một người con gái gánh chè vào cầu. Miệng chào, tay đặt gánh trên vai xuống: - Kìa, chào các bà! Các bà đã đi bán chè về rồi đó à? Chợ còn đông không? - Cũng còn lẻ tẻ ít người. Sao hôm nay chị lại đi chợ trưa thế? - Vì sáng nay thày tôi mệt mà thằng em Lân tôi thì nó chạy đi chơi đâu từ hôm qua chưa về. Sáng nay tôi không đi hái chè được sớm. Đến lúc thày tôi đỡ mệt, tôi mới đi hái được chè. Hái xong thì trời gần đứng bóng. - Chà! cái thằng Lân ấy bé nứt mắt ra mà gớm lắm đấy. Huệ nói tiếp: - Thày tôi với tôi lắm lúc khổ vì nó. Ai lại bé nứt mắt thế mà dám rủ nhau với những quân con nhà mất dạy, đánh chết một con chó rồi mang vào rừng Lim ăn thịt với nhau. Chó lại là chó của thày Cai Tổng. Thày tôi thiếu lạy sống thày ta, thày ta mới cho ở . . . Rồi nàng thở dài: - Sớm chầy rồi cũng đến phải bỏ đất này thôi, chứ con với em mà như giặc non thế thì ai chịu nổi. - Tại ông Đồ chiều nó quá. - Khốn nhưng thày mẹ tôi chỉ có nó là trai. Mẹ tôi mất sớm, thày tôi thì còn hòng lấy ai nữa. . . Rồi, vội vàng xốc áo, Huệ vừa đặt gánh lên vai vừa chào: - Thôi, chào các bà lại nhà. Tôi đi chợ chẳng mà chợ trưa. Ra tới chợ chợ vãn hồ hết người, Huệ tìm mãi không được khách mua. Trời gần xế bóng, nàng đành lủi thủi lại gánh gánh chè về. Tới Cầu Vồng, mặt trời đã nắng xiên khoai. Đặt gánh chè xuống sàn cầu, nàng ngồi xuống chiếc ghế dài đóng liền bên vệ cầu. Tỳ hai khuỷu tay vào đầu gối, hai bàn tay đỡ lấy hai má, nàng cúi đầu xuống. Óc nàng lan man nghĩ hết chuyện nọ đến chuyện kia, từ cái chuyện gần nhất là bữa gạo ngày mai với chén thuốc cho cha, đến cái việc xa lắc xa lơ từ ngày nhỏ dại, ở làng Dóng, là nơi nguyên quán của nàng, là nơi chứa mồ mả tổ tiên nàng, là nơi cha nàng, vì cùng quẫn phải bỏ mà đi. o0o Năm năm trước, nàng còn là con bé lên mười tuổi. Nàng còn nhớ năm ấy cha nàng vừa thi hỏng khoa trước xong. Một chút gia tài, vài mẫu ruộng chiêm khô mùa thối, cũng theo mấy khoa thi hỏng mà vào tay nhà họ Lê là nhà giầu nhất trong làng. Cuối năm ấy, mẹ nàng mất. Nàng còn nhớ như in vào óc mấy câu mẹ nàng nói với cha nàng lúc gần tắt nghỉ: - Tôi chết đi thì thày nó nên liệu mà bán cái nhà này cùng mấy sào vườn này đi, rồi liệu mà đi chỗ khác. Ở đây không có nghề gì làm mà bố con nuôi nhau được. Tôi biết đã lâu rằng ngắn mệnh, nên đã sớm lo cả rồi. Tôi đã nói với ông Quản Ba bên làng Ném, xin ở nhờ miếng đất ở cái nương chè sườn núi. Con Huệ sang năm đã mười một thì làm việc nhẹ như hái chè có thể được. Con gái hái chè ở đấy, đức Bà trả cho mỗi thúng mười trinh. Thôi thì như thế cũng tạm lần hồi cho qua. Ông Đồ cứ ngồi lặng cả đi mà không nói gì. Một lúc, bà Đồ lại nói tiếp: - Hai năm nữa lại đến khoa thi. . . Làm sao ra tiền mà đi thi. . . ? Rồi bà ứa nước mắt khóc. Muốn cho chồng không trông thấy những giọt nước mắt đau thương ấy, bà quay mặt vào vách. Ông Đồ lúc ấy mới nói bằng một cái giọng nửa khóc mếu, nửa cứng cát. Cái khóc mếu là tính tình tự nhiên, ông lại đem che đi bằng cái vẻ " tráng sĩ vô nhan", thành ra trông lại càng thêm thảm đạm. Dáng mặt ông, cử chỉ ông lúc đó, nó giống như cái nhà gần xiêu, chịu bão ba năm lại lấy que tăm mà đỡ. Ông nói: - Tôi đi thi đến khoa năm ngoái vừa năm khoa. Thôi, từ nay tôi cũng không màng chuyện thi cử gì nữa. Tôi không đỗ thì con nó đỗ. Lúc đó, bà Đồ nấc lên mấy tiếng. Ông biết rằng sắp tới lúc cuối cùng, liền gọi: - Hãy quay mặt ra mà nhìn con đã. Bà Đồ quay ra nhìn hai con: Huệ và Lân. Bà cầm tay Huệ: - Nửa chừng mẹ bỏ thày con và chúng con đi, thật như đứt từng khúc ruột. Con chịu thương chịu khó. Thày còn mạnh thì thày đỡ việc cho. Em con tính nết hung tợn, con trông coi nó. Giá là trẻ con nhà khác thì những câu ấy có nghĩa lý gì đâu. Già ra lắm thì cũng chỉ đến khóc là cùng. Nhưng hình như trời phú sẵn cho những trẻ mồ côi sớm một khối óc riêng, một tính tình riêng để hiểu biết, để cảm thấu những lời, những việc, mà đứa khác vào tuổi nó không hiểu tí gì. Khối óc riêng ấy, cái tính tình đặc biệt ấy, hoặc là trời ban cho để bù vào cái nỗi thiệt thòi đau đớn riêng: không mẹ để yêu thương, để che nấp. Cây ấm về bụi, nhưng cây không có bụi thì lại cứng cát hơn cây mọc chen nhau. Huệ nhận biết nỗi khổ của mình nay mai, Huệ đủ can đảm nhận trách nhiệm nuôi cha già, chăn nom em bé. Huệ chắp tay lại nói: Con xin chịu thương chịu khó. . . Huệ tuy muốn nói nhiều nhưng chỉ đủ sức nói được bằng ấy tiếng thôi. Bằng ấy tiếng, nhận lấy cả một cảnh thương tâm, cả một nghĩa vụ khó nhọc, ở miệng một đứa bé mười tuổi đầu, nó còn ngậm nhiều nghĩa chua chát đau thương, nhiều điều quả quyết cảm khái hơn là những lời nói dài dòng văn tự của người lớn, nhất là nó còn hơn cái câu nói bằng giọng "tráng sĩ vô nhạn" gượng gạo của ông Đồ. Nói xong, nàng một tay cầm chặt tay em, thằng Lân, đứng ở đầu giường, một tay để lên trên vai cha ngồi ở chiếc chõng cạnh giường. Dáng điệu ấy hình như muốn tỏ rằng hai tay nàng tuy còn non nớt nhưng sẽ nhận việc giúp giập cha goá và em côi. Mẹ nàng nấc lên mấy tiếng, rồi có lẽ vì đau thương quá, lại xoay mặt vào vách lần nữa. Nàng gọi thất thanh: - Mẹ ơi, mẹ nhìn thày con và chúng con đã. Bà Đồ lại quay mặt ra, đưa mắt nhìn hết chồng đến con, rồi dần dần nhắm lại. Nghĩ đến đó, nàng bỗng rưng rưng nước mắt. Rồi nàng lại nghĩ đến cái ngày tết Nguyên Đán năm sau, hai tháng sau khi mẹ nàng chết. Nàng còn nhớ rõ là đêm hôm ba mươi tết, cha nàng bảo: - Con Huệ sang năm thì mười một, thằng Lân sang năm lên mười. Lân lí láu hỏi: - Thày nói thiếu mất một tiếng: chị Huệ lên mười một, con lên mười. Hai chị em con cùng lên cả chứ. Ông Đồ cười mà cắt nghĩa cho con: - Từ lên một đến lên mười thì mới nói rằng lên. Từ mười một trở đi thì không lên nữa. - Thế xuống à? Không lên nghĩa là không còn trẻ con nữa. Nàng nghe thế, bụng bảo dạ: Mình không còn trẻ con nữa. Thì từ nay ta làm người lớn. Ta không lên tuổi nhưng lên một bực khác. Rồi năm sau, ba cha con sang ở bên tổng Ném, dựng một nóc nhà tre ba gian ở sườn đồi Núi Chè. Nàng được ông Quản Ba đưa vào làm con gái hái chè cho nương chè bà Trần Phi, vương phi chúa Trịnh. Mấy năm đầu vì chưa đủ sức, nên nàng chỉ hái chứ không gánh đi bán. Hái chè thì công một thúng mười trinh. Sức nàng năm đầu hái mỗi ngày được hai thúng, thành ra chỉ kiếm được có hai chục trinh một ngày. Nếu hái rồi đem đi bán thì cứ mỗi thúng may ra có khi được lãi đến hai mươi trinh. Mấy năm sau, từ năm ngoái, năm nàng mười bốn tuổi, nàng cũng bắt chước người khác, hái chè đem ra chợ bán. Nghĩ tới đó, nàng nhìn hai thúng chè còn đầy ăm ắp mà ngán ngẩm cho số phận hẩm hiu. Mặt trời đã khuất núi, phải về nhà. Đứng dậy đặt gánh lên vai, nàng thở dài một tiếng: - Trời ơi! tôi mới mười lăm tuổi đầu, sao trời đã đày cơ cực đến thế này? Nhưng cơ cực thế nào thì cũng phải gánh hàng về gánh nhà còn nữa nặng nề hai vai. Trời nhá nhem tối mà nàng còn lững thững trên con đường bờ ruộng chiêm. Bất giác nàng nhớ đến mấy chữ Nhật mộ đồ viễn. . . [8]. Đến chân núi, nàng đặt gánh xuống ngẫm nghĩ một lúc rồi mới gánh gánh chè lên núi vào chiếc nhà tre. Ông Đồ thấy gánh hàng của con còn nguyên vội nói: - Chết chửa! sáng ngày thày đã bảo con là cứ đi hái chè sớm rồi cứ đi chợ sớm. Con không nghe. Không bán được thì lấy gì mà ăn. Gánh chè này mai bán thì lại lỗ vốn đó thôi. Nàng nói: - Con không thể nào bỏ thày ốm mà đi được! - Thày đau xoàng, có sao? Làm thế nào bây giờ Huệ? Thấy ông Đồ luống cuống lo âu, nàng trấn tĩnh nói: - Thày cứ an tâm. Rồi đâu sẽ có đấy. Thày nên nhớ rằng: Việc gì đã nghiệp dĩ rồi thì băn khoăn lo lắng cũng vô ích. Chi bằng ta nghĩ cái việc cần phải làm, cái việc kế tiếp sau này có hơn không. - Con nói cũng có lẽ, nhưng lẽ ấy chỉ phải với người còn có địa thế chứ triều bất cập tịch[9] như cha con ta thì nói lý lắm chỉ đến chết nhăn răng ra là cùng. Thì lo lắng băn khoăn mà đến lúc phải chết nhăn răng ra cũng vẫn phải chết như thường. Thày an tĩnh con hỏi nghĩa mấy chữ. - Ừ thì thày cũng nghe con. . . Nhưng con hỏi chữ gì? - Chữ nhật mộ đồ viễn, đảo hành nghịch thi . . . nghĩa là gì? - Con chưa hiểu kia à? Thày vừa mới bảo con mấy chữ ấy hôm nào mà. - Con cũng hiểu sơ sơ, thày cứ cắt nghĩa lại. - Đó là chữ ở Sử ký. Lúc Ngũ Tử Tư vì thù cha anh, cam tâm bội nước Sở đi thờ nước khác và làm nhiều chuyện trái ngược đời. Bạn Ngũ Tử Tư là Thân Bao Tư có ý không bằng lòng. Ngũ Tử Tư nhắn lời bảo bạn rằng: "Người về thưa chuyện cùng bạn ta rằng: Ta tuổi đã già mà việc làm còn xa, còn nhiều; nên phải làm đảo ngược cả công việc lại." Con hỏi làm gì nghĩa chữ ấy? - Con hỏi cho nhớ đó thôi. o0o Tối hôm ấy, nàng trằn trọc mãi không ngủ. Nàng khuyên cha không nên băn khoăn mà chính nàng bây giờ lại băn khoăn rối rít hơn cha. Tâm trạng người ta thật nhiều lúc trái ngược như thế. Người yêu bảo người yêu: mình quên tôi đi, ghét tôi đi; nhưng giá người ta có quên mình, ghét mình thì mình lại không bằng lòng. Nàng bảo cha nàng cứ bình tĩnh, nhưng giá cha nàng cứ bình chân như vại thì nàng lại buồn, buồn rằng chẳng ai chia đắng sẻ cay. Nàng băn khoăn mãi không thôi. Nàng băn khoăn mãi về mấy chữ nàng vừa sực nhớ đến ban chiều. Nhật mộ đồ viễn, Ngũ Tử Tư thế mới là nhật mộ đồ viễn, mới là trời tà đường xa chứ cha con mình đây thì đến nhật mộ đồ cùng nữa cũng có. Đường xa còn phải đảo hành nghịch thi, nữa là đồ cùng. Rồi ta cũng phải bắt chước họ Ngũ mà thôi. Mình có kém gì thiên hạ mà chịu khổ mãi, chịu khổ dấm dúi mãi ở sườn đồi này? Nhan sắc mình có, học thức mình có, đức hạnh mình có, mà mình chịu bỏ thân trong hang tối, trong khi những kẻ xấu như ma, ngu như lợn, hư thân mất nết, được cưỡi đầu cưỡi cổ mình, đạo trời còn có gì là công bằng nữa? Nàng sẵn lòng làm một điều nào ngược đời, quỉ quyệt để ra khỏi xó tối ấy lắm, nhưng làm thế nào mà làm được một cái hành động phi thường? Làm điều ác hay điều thiện cũng cần phải có thế, có cơ, có thì. Hiện nay, thân thế, thì cơ có gì lợi cho nàng đâu. Nàng định đảo hành nhưng hiện trước mắt có hành vi gì đáng để đảo; định nghịch thi, nhưng nào bây giờ có gì để thi thố một cách nghịch lại? Chẳng lẽ đi hái chè đem vứt chè ra sườn núi ? Chẳng lẽ tuốt ngược lá chè từ gốc tuốt lên? . Chẳng lẽ đi chợ bán chè ngược đời, giá cao không bán, bán giá thấp, chợ sáng không đi, đi chợ chiều? Đi chợ chiều thì đã hai ba phen ế chè về đó! Người anh hùng lúc bước đầu cùng người anh hùng lúc bước cùng, đều ở vào cái tình trạng giống nhau: " không biết làm gì cả, không làm gì được cả. ông Lưu Bị lúc không có miếng đất cắm dùi cùng ông Thạch Đạt Khai lúc chạy vào Thục thật là giống nhau. Tài có mà đành xếp xó, trí có mà đành bỏ không". Ở cô gái hái chè, có ủ sẵn tâm hồn một người nữ kiệt đó, nhưng cái gánh chè nặng trĩu vai vẫn dìm nàng xuống hàng một cô gái quê vứt bỏ mà thôi. Tệ hơn, vì nhan sắc, vì tài học, nàng thành ra một quái vật giữa bọn thôn nữ linh hồn mộc mạc sơ sài. o0o Sáng hôm ấy, nương chè tấp nập hơn mọi hôm, vì bà chúa ở kinh đô về thăm quê và nhân tiện thăm nương chè trên núi. Hơn trăm con gái hái chè hôm ấy theo lệnh ông Quản Ba, quản lý đồn điền của bà chúa ăn mặc óng chuốt hơn mọi ngày và hái chè dẻo dang hơn mọi ngày. Các cô gái hái chè cô nào cô ấy thi nhau mà ăn mặc để khoe màu với Chúa. Trông mỗi người con gái tựa như cái nụ hoa hàm tiếu đứng dưới gốc chè. Chiếc áo đổi vai, trên bằng lụa mầu nâu, dưới bằng the thâm khép kín cái ngực, để lấp ló khi ẩn, khi hiện chiếc yếm nhiễu đại hồng. Phần the thâm dưới áo, lẫn với màu thâm chiếc váy sồi, trông tựa như cái cuống hoa. Phần lụa hung hung nửa trên áo, phản màu với phần dưới, trông như cái đài hoa đỡ lấy những cánh hoa: còn lấp ló bên trong. Cái nhị hoa cũng còn đương phong lại bằng một chiếc khăn vuông trùm mỏ quạ, để lộ những khuôn mặt tròn tròn đo đỏ tươi tươi xinh xinh. Rồi thì nương chè vang lên những tiếng hát đúm, hát quan họ: Đêm qua mất một cành sòi Để thuốc em nhạt để sồi kém thâm Đó là tiếng hát một cô trách vì đâu mà nồi thuốc nhuộm của mình nhạt, nên tấm sồi nàng nhuộm kém thâm. Đáp câu ấy, một cô khác thay con trai trả lời: Đêm qua anh bẻ cành sòi Anh vin lá thắm tìm tòi nhà em Một cô khác, ý chừng ghen cách ăn mặc của chị em, hát chua ngoa: Chị giầu chị mặc xống xanh, Chúng em khốn khó quấn quanh lụa đào Chị giầu chị tát cá ao Chúng em khốn khó đi trao cá mè. Chị giầu chị lấy ông Nghè Chúng em khốn khó trở về lấy vua Một chị khác đáp lại: Lấy vua chầu chực trong cung Sao bằng mộc mạc mặc lòng sớm khuya Hơn trăm đoá hoa quê, dưới hơn trăm gốc chè, giọng hát đúm lanh lảnh vang khắp ngọn đồi khe núi, khiến người ta quên mất một trang tuyệt sắc giai nhân đương hí húi cắt cỏ dưới chân đồi. Trang tuyệt sắc giai nhân ấy, vì nghèo, không có quần áo mới để hái hầu chè vào ngày bà chúa về thăm, nên bị ông Quản cắt đi cắt cỏ cùng dăm bảy chị em nghèo khác ở dưới sườn đồi chân núi, để dọn lối đi cho nhà chúa sắp qua. Tiếng hát trên đồi bỗng lặng thinh vì xa xa người ta đã nghe thấy tiếng lính hô người núp mặt, để chỗ cho bà Tiệp dư họ Trần của chúa Tĩnh Đô Vương. Xa xa người ta đã thấy bóng tàn quạt đám rước bà chúa đi thăm nương chè. Dưới sườn núi, bọn tổng lý đã mặc áo thụng xanh chực sẵn sau những chiếc hương án trên có đỉnh trầm nghi ngút. ông Quản Ba chạy lên chạy xuống dặn bảo các cô gái hái chè cùng cắt cỏ: - Lệnh bà sắp tới nơi, đừng đứa nào hát hổng gì nữa nhé. Mà hái cho nhanh nhẹn. Mà đừng có nhìn trộm lệnh bà mà chết đó. Võng bà Tiệp dư họ Trần đã đến chân đồi. Phu võng hạ võng xuống, phu kiệu mang ghế đăng sơn đến. Bà uy nghi bước chân xuống võng rồi lên ghế để cho bọn phu khiêng lên núi thăm các nương chè. Lúc đó tiếng người im phăng phắc, người ta chỉ nghe thấy tiếng rào rào mấy trăm bàn tay đương cùng hái lá chè. Khi bà Tiệp dư lên nửa sườn đồi, bỗng ở dưới chân có tiếng hát vang lên: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Một trăm thức cỏ lai hàng tay ta! Vừa hát, người con gái vừa tươi cười lấy liềm vơ cỏ cắt cỏ. Bà Tiệp dư bắt phu dừng lại, bảo thị nữ gọi người con gái ấy đến gần. Ai nấy đều sợ hãi mà người con gái vẫn điềm nhiên tiến đến chiếc ghế đăng sơn. Bà Tiệp dư hỏi: - Con ở đâu, bao nhiêu tuổi? Nàng chững chạc nói: - Con ở nhờ chiếc nhà tre sườn núi này. Con làm nghề hái chè hầu lệnh bà. - Sao con không lên núi hái chè lại ngồi cắt cỏ? - Ông Quản bảo con hôm nay cắt cỏ. Mọi hôm con vẫn hái chè. Bà Tiệp dư cúi nhìn kỹ, nhận ra một người con gái tuyệt kỳ đẹp đẽ sắc sảo, dẫu rằng ăn mặc quá xuềnh xoàng. Mặt nàng trái soan, đôi mắt hơi xếch điểm bộ lòng đen đen ngời. Cái vẻ sáng như gương, sắc như dao của khoé mắt được cái sắc đen thẫm của lòng đen làm dịu lại. Thật là sáng như tia chớp mà êm đềm như nước hồ thu. Nàng cúi gầm mặt xuống, thì như đem cả làn thu ba chìm tận đáy lòng, mà khi nàng ngước mắt nhìn lên thì như đem hết tinh hoa bật lên một tia sáng làm chóa mắt người xem. Ngắm một lúc, bà Tiệp dư truyền cho phu tiến lên nương chè trên núi mà cho nàng lùi ra. Chiếc kiệu đăng sơn vừa đi khỏi, nàng lại ra lấy liềm vơ cỏ cắt, rồi lại cất tiếng hát tiếp: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Một trăm thức cỏ lai hàng tay ta! Quên mình giữa đám cỏ hoa Buồn tênh những lúc trăng tà sao thưa! o0o Hôm ấy, ông Đồ Đặng đợi con gái mãi đến chiều tối. Ông ra vào băn khoăn: Quái! con bé đi sang bên phủ làm chi mà lâu thế. Hay là bà Tiệp dư lại giữ lại rồi mang thẳng về kẻ chợ? Dễ thường mình phải sang đòi nó về mới được. Mình tuy cùng, nhưng không khi nào lại chịu cho con vào vương phủ làm con đòi con ở. Ông đã chít khăn mặc áo vừa toan ra đi thì con gái ông, cô Đặng Thị Huệ, cũng vừa về. Ông vội hỏi: - Mụ ta gọi con sang làm gì đó? Ý chừng lại muốn mang con về kẻ chợ làm thị nữ trong vương phủ hẳn thôi? Ung dung, nàng đáp: - Thày hãy khoan thai rồi con xin nói. Việc này con nghĩ còn có chỗ phân vân. Đêm nay thày nên tĩnh tâm mà bàn cùng con cho kỹ. - Thì việc gì? - Đúng như lời thày dự đoán. Bà Tiệp dư muốn đem con về kẻ chợ làm thị nữ trong phủ chúa. - Cái đó thì thày nhất định không bằng lòng. Dẫu rằng nhà ta nghèo túng, nhưng đem thân con làm đứa nô tỳ thì không nên. Thà rằng chết đói ở sườn đồi này còn hơn làm đứa con đòi mà sống. Con nghĩ lại mà xem: con nhờ trời nhan sắc cũng có, lại thiên tư sáng suốt, gọi là cũng có dự phần bút nghiên, sao lại có thể hạ mình làm những việc hạ tiện ấy được? Làm thị nữ trong vương phủ thì chẳng phải làm gì khó nhọc cả, nhưng. . . con có thể dìm tấm thân vào hàng tôi tớ được không? Điều ấy thày nhất định không nghe. Chẳng phải bàn tán gì cả. Để mai thày sang tận nơi nói cùng ông Quản hoặc với ngay bà Tiệp dư. - Con đã nhận lời rồi. Con cũng biết thày chẳng bằng lòng. Nhưng con đã có định kiến. Ông Đồ chua chát: - Định kiến làm con đòi ! Thật toi cả công tao dạy bảo. Mày làm tủi nhục đến cả vong linh mẹ mày! Rồi ông vùng vằng trở ra đi: - Cái đó xin tuỳ cô; tôi không dám dự. Cô muốn nhởn nhơ áo lụa quần là thì mặc cô. Vâng? mời cô theo bà chúa sang kẻ chợ ngay, tôi không giữ, không cấm. Nói xong, ông vùng vằng ra đi. Huệ chạy theo, van lơn: - Thày đừng giận con. Con hãy tạm náu mình cho qua lúc khó khăn này, rồi một mai con lại về quê nhà. Ông vùng vằng đòi ra đi cho hả cơn giận thế thôi. Ra cửa, ông cũng không biết đi đâu, đi đến nhà ai nữa. Tần ngần một lúc, ông lại trở vào, cởi khăn áo rồi nằm vật lên giường thở dài. Đêm hôm ấy, hai cha con đều trằn trọc không ngủ được. ông Đồ vì tủi nhục, Huệ vì cái định kiến và cái hi vọng của nàng. Nàng nghĩ: Thì cơ, muốn có thì phải đổi chỗ ở, bước sang một dịp cầu khác. May ra. . . Ta cũng chẳng cầu gì làm một đứa thị nữ, ta chỉ cầu lọt vào hoàng cung vương phủ để chờ xem có dịp gì không. Không vào rừng, sao bắt được cọp, mà đã vào rừng thì vào đường hoàng hay vào chui rúc cũng thế mà thôi. Sáng hôm sau, trời chưa bình minh, ông Quản Ba đã sang giục nàng sang bên phủ để theo bà Tiệp dư về kinh. Ông Đồ lạnh lẽokhông nói năng gì cả. Ông biết rằng có can con, cũng không được nào. Trước khi bước chân ra đi, nàng nói với cha: - Xin thày đừng giận con quá. Việc đời không biết đâu là chừng cả. Biết đâu phúc mà tìm, biết đâu hoạ mà tránh. Tái ông thất mã, an chi phi phúc? [10] Chú thích [1]. Tức là tổng Khắc Niệm, bây giờ thuộc huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. [2]. Tức là làng Hoài Bão, thuộc huyện Tiên Du, tinh Bắc Ninh. [3]. Nhà Chúa vào những đời Văn Tổ Nghị Vương Trịnh Tráng và Hoàng Tổ Dương Vương Trịnh Tạc. [4]. Họ to, được một vùng, một nước suy trọng. [5]. Đỗ [6]. Làm quan. Ai vừa đỗ vừa làm quan là có cả khoa lẫn hoạn. [7]. Đôi bên không thù oán gì nhau cả. [8]. Ngày đã xế bóng mà đường còn xa. [9]. Có bữa sáng lo bữa tối [10]. Xưa có ông lão ở ngoài cửa quan mất con ngựa. Người ta đến thăm ông nói: "biết đâu chẳng là phúc cho tôi". Vài tháng sau, con ngựa ấy dắt được con ngựa khác về. Người ta đến mừng, ông nói: "biết đâu chẳng là hoạ cho tôi". Sau người con cưỡi ngựa ngã què chân. Người ta đến thăm, ông nói: "biết đâu chẳng là phúc". Một năm sau, giặc Hồ đến, người ta phải ra trận, mười người chết chín. Con ông vì què chân nên tránh khỏi phải đi lính, khỏi chết.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
www.tangthuvien.vn
 
Trở lên đầu trang