[Việt Nam] An Tư
Chương 2 : II
Người đăng: Lịch sử Việt Nam
Ngày đăng: 10:10 06-09-2018
.
Chiêu Thành Vương Trần Thông là con cả Thái úy Khâm Thiên Đại vương Trần Nhật Hiệu. Khâm Thiên, khi mất mới 44 tuổi, sinh hạ được bốn con, cả là Thông, thứ là Nhiếp, sau là hai người con gái.
Sinh trưởng ở một gia đình quý tộc, sung túc, Trần Thông tuy mồ côi cha từ bé, nhưng được dạy dỗ chu đáo. Bà mẹ là người cương quyết, thông minh nên ảnh hưởng về đường giáo dục của chàng rất lớn. Vương cũng có học văn, nhưng thiên về võ hơn và có một tinh thần thượng võ rất cao. Nguyên do cũng vì chung quanh vương, kể từ các vương hầu cho đến dân gian ai ai cũng ham luyện tập côn quyền. Vương tinh thông cả 18 ban võ nghệ, nghe đâu có thầy giỏi là đi tìm hay đón về cho bằng được mới thôi. Vương lại rất ham đánh vật, môn thể thao thịnh hành nhất đời Trần, mỗi khi cởi trần đóng khố ra sân vật, ai cũng phải trầm trồ khen ngợi thân hình lực sĩ của chàng. Bắp thịt nở nang, lẳn từng múi, da chàng ngăm đen, nên trông vững chãi như một pho tượng đồng. Tính chàng lại hiếu thắng, không chịu thua ai, trong các cuộc tranh đấu bao giờ cũng dai và liều, đối phương nhiều khi bị thua vì thế. Không những chăm luyện tập thân thể, chàng còn sành bơi lội, ham săn bắn, thường đi thám hiểm những hang sâu động lớn, vượt biển đè sóng, hoặc lên núi vào rừng, bắt được hổ báo đem về luôn luôn.
Là một vị vương tước, chỗ chí thân của nhà vua, Trần Thông được quyền mộ các trai tráng trong vùng làm quân bản bộ. Trước còn vài trăm, sau năm trăm một nghìn, chàng lấy hiệu quân "Tinh Cương" của Khâm Thiên khi trước. Nền nếp cũ, khiếu riêng, sự chỉ bảo của các vị vương hầu thạo hơn, và sự đọc sách nói về nghề binh đã giúp chàng luyện được một binh đoàn có kỷ luật, có sức chiến đấu rất mạnh, hoàn toàn phục tùng chàng. Tuy còn trẻ, Thông đã tỏ ra một viên tướng giỏi.
Giáo dục, tinh thần và địa vị chàng đã đào tạo nên một người dũng kiện, quả cảm, khinh nguy hiểm, khéo chỉ huy, lúc nào cũng có thể gánh vác được những nhiệm vụ khó khăn.
Tuy còn trẻ, nhưng so vai vế thì vương ngang hàng với Thánh Tông Thượng hoàng, với Tĩnh Quốc, Chiêu Văn Vương, với Quốc công Hưng Đạo, và đứng vào hàng chú vua Thiệu Bảo. Thánh Tông thương chú mất sớm nên không bỏ lỡ một dịp nào, ban xuân lộc cho em. Mỗi khi chàng đến kinh, Thượng hoàng giữ chàng mãi mới cho về, khoản đãi rất hậu. Anh chị em trong tôn thất đối với chàng cũng rất luyến ái.
Cuộc tình duyên của chàng và An Tư bắt đầu được ngót một năm nay, và mỗi ngày một thêm đằm thắm. Họ đã yêu nhau với tất cả bồng bột của thanh niên, với tất cả sức mạnh của dục vọng được hoàn toàn buông lỏng. Sự thân mật giữa anh em chị em trong họ, sự dễ dãi của một phong tục tự do thoát hẳn ra ngoài luân lý đạo Khổng, không khí êm đềm, nhàn hạ phong lưu trong cung, tất cả những điều kiện ấy đã giúp cho cuộc tình duyên nảy nở. Hoặc cùng nhau hội yến, dan tay nhảy múa, hay ngồi đánh bài trong cung nghe hát, hoặc cùng vương hầu công chúa phóng ngựa dạo chơi hoàng thành, hay đua thuyền hóng mát trên Hồ Tây, đôi mắt lửa chỉ tìm đôi mắt nhung, bóng ngang tàng chỉ hòa theo bóng liễu.
Vương thỉnh thoảng mới đến kinh về những dịp kỵ lạp, hay những ngày lễ vạn thọ, một năm chỉ độ ba bốn lần, sự xa cách càng thêm nung nấu tình yêu đôi lứa, kích thích nỗi nhớ mong. Mỗi khi đến Thăng Long, chàng không bỏ lỡ một dịp nào không lẻn vào cung riêng tình tự với người chị con nhà bác ruột.
Ở cung An Tư ra, Chiêu Thành Vương ngây ngất như người say rượu hồn chàng phiêu nhiên bay bổng trên mấy tầng mây. Mắt chàng mơ màng, nhưng màu hồng vui như nhảy đón trước mặt chàng. Cánh tay chàng còn đượm sức nóng của thân nõn nà, tai còn nghe tiếng sáo của lòng nàng, mũi chàng còn phảng phất hương vị ngây ngất của xác thịt, toàn thể người chàng bao bọc một lần phấn ái tình êm dịu. Chàng không nghe thấy gì ngoài khúc nhạc tưng bừng của tình ái. An Tư hiện trước mặt chàng, trong trắng kiều lệ, chàng tự hào hơn chúng bạn vì được một giai nhân tuyệt thế ấy để lọt mắt xanh. Dù phải phơi thây ngoài chiến địa, chàng có tiếc gì.
Trong phút say sưa, chàng tưởng như nàng ở trước mặt, giơ tay, để vuốt ve làn tóc đen dài. Một tiếng gọi, kéo chàng từ chín tầng mây xuống thực tế. Chàng giật mình e thẹn vì đã qua cửa Dương Minh, và một người lính trong đội cung thần hỏi:
- Hoàng thúc làm gì đấy?
Cờ quạt bày dàn, kiếm kích ngời sáng. Gã tình nhân ngây thơ đã biến mất và Trần thông hiện nguyên hình chiến sĩ giữa một quang cảnh sực mùi chinh chiến. Chàng còn đương hoang mang, thì thấy trong cửa Dương Minh đi ra một người vào trạc 27, 28 tuổi, chít khăn vàng, mặc áo bào vàng chẽn, đeo kiếm dài, mặt trái xoan, điểm những đường vân tía, trông hao hao nét mặt Khổng Phu Tử, thần khí quang thái, dáng trông uy nghiêm tôn kính, nhưng đạo mạo rất nhân từ. Ấy là vua Thiệu Bảo.
Thấy Chiêu Thành Vương, vua tươi cười. Chàng bước lại, phủ phục xuống bên đường, hô vạn tuế. Vua tiến lại, nâng dậy, cất lời rất sang phán:
- Xin hoàng thúc bình thân.
Vua ép chàng cùng đi song hàng và nói tiếp:
- Trẫm muốn nhờ hoàng thúc một việc, không ngờ lại gặp hoàng thúc ở đây, may lắm. Hoàng thúc không cần lên Bắc vội.
- Hạ thần xin chờ lệnh thánh.
- Hoàng thúc chắc chưa biết rõ. Quân ta thua to quá, Chi Lăng đã mất. Thoát Hoan đánh xuống thế như chẻ tre, quân sĩ lại hung ác, giết hại nhân dân rất nhiều. Quốc công kéo đại binh về Vạn Kiếp, quân tướng tan vỡ. Trẫm lấy làm lo lắm, muốn đến Vạn Kiếp, hỏi chuyện Quốc công, nhưng không muốn bày vẽ nghi trượng, trẫm tính đi một chiếc thuyền con nhanh và tiện hơn, muốn mong hoàng thúc cùng đi…
- Hạ thần xin tuân thánh chỉ.
Vương lúc ấy rất thẹn với mình. Chàng cảm thấy như mình mang tội lớn với nhà vua, với xã tắc, với cả triều đình. Trong các vương hầu, chàng là người ra trận sau hơn cả, chùng chình mãi mà đến khi cất quân đi còn ham bề son phấn. Vương coi chính như mình đã mang một trách nhiệm lớn trong sự thất bại của quan quân. Vì thế, vương ngượng nghịu, tuy vua Thiệu Bảo rất ôn tồn không nói gì và cũng không biết gì về chuyện đêm qua. Vua vui vẻ và thân mật bảo chàng:
- Vậy hai chú cháu ta cùng đi ngay.
- Tâu quan gia, hạ thần xin tuân lệnh, chỉ xin quan gia cho hạ thần báo tin trước cho quân bản bộ kẻo họ nóng ruột, vì họ sốt sắng ra trận.
- Hoàng thúc thực là chu đáo. Vậy hoàng thúc về ngay đây nhé, trẫm cũng còn phải bẩm mệnh thượng hoàng.
Vương mượn một con ngựa phóng ra ngoài thành Long Phượng. Xa xa, cánh đồng đã hiện rõ lá cờ "Tinh Cương". Chàng tế lại, Trần Quỹ và đoàn gia tướng ra đón, hai nghìn tráng sĩ thấy chũ về ai nấy đều hớn hở bảo nhau sửa soạn lên đường. Họ bị "giam cầm" nay mới được ra trận, người nào cũng mong chóng được lên Bắc, giao chiến cùng rợ Mông để tỏ chí bình sinh, và báo ơn chủ tướng.
Trần Quỹ trạc 50 tuổi, tóc bạc râu thưa, trông tráng kiện và có vẻ hiền lành cẩn thận. Vương cùng Trần Quỹ và các gia tướng đi thăm đội ngũ, thấy ngăn nắp tề chỉnh, quay lại khen Trần Quỹ và bảo mọi người:
- Ta phải đi lo một việc rất khẩn cấp không tiện nói ra đây. Các ngươi mong muốn lên đường, ta biết, nhưng đành vậy, hãy nấn ná chờ ta vài bữa. Ta đi, công việc lớn nhỏ ở nhà giao cả cho Quỹ, các ngươi nên nghe lời Quỹ cũng như nghe lời ta. Đừng có sao nhãng nghề binh, chểnh mảng đội ngũ. Các ngươi chưa ra trận cũng như ra trận rồi, ở nhà mà luyện tập thân thể cho thêm cứng rắn, võ nghệ cho thêm tinh thông, ấy cũng là đánh giặc đấy.
Chàng chào mọi người rồi bước ra. Họ có ý thất vọng và dường như ghen cùng chủ. Nhưng dần bàn bạc họ không oán chàng nữa, cho rằng việc chàng phải đi đây chắc còn quan trọng gấp mười lần việc ra trận. Họ đã thừa hiểu chính vương cũng sốt ruột lắm, không khi nào chàng lại có ý hoãn việc tiến binh.
Khi Chiêu Thành Vương đến cửa Dương Minh, thì vua Thiệu Bảo đang đi đi lại lại chờ đợi. Thấy vương, vua nói:
- Nào ta đi cho được việc.
Vương theo vua ra bến sông Cái. Dân gian biết là vua đi, kéo nhau lũ lượt theo sao, khắp các phố phường người ta đổ ra, tiếng hô vạn tuế vang lừng, vui vầy và đầm ấm. Nếu là ông vua khác, thì dân chúng đã phạm vào tội bất kính, nhưng vua Thiệu Bảo lại lấy thế làm thích. Vua vốn nhân từ, công chính, hàng ngày thường cúi xuống bách tính xem xét dân tình, có khi vi hành để thân dân. Vua không bỏ lỡ một dịp nào để giúp họ: đói kém thì phát gạo, rách rưới thì ban quần áo. Vua không nề hà gì, vào cả túp lều tranh ẩm thấp, trò chuyện cùng ông già bà cả, có khi ôm ẵm trẻ nhỏ giữa những tiếng cười hồn nhiên của đám người bình dân.
Thượng hoàng nhiều khi quở, các quan nhiều lần can, vua vẫn không sao bỏ được thói quen khả ái ấy, phát sinh từ lòng hồn nhiên bác ái bao trùm đẳng cấp. Vì vua hay gần gũi với dân gian, nên mỗi khi đi đâu, bách tính kéo ra theo như nước. Những lúc ấy vua không bao giờ cần hộ vệ, để được hoàn toàn chung sống với những người chất phác, thành tâm quyến luyến. Họ đã coi vua như một Thế tôn, một Bồ tát đầy lòng từ bi hỉ xả, họ chỉ đợi dịp báo ơn vua nhân hậu.
Được gần vua, họ đã biết tính tình vua, cả những thói quen của vua. Từ mấy năm nay, lòng dân yêu vua lại càng tăng nữa. Họ biết nhà Nguyên sách nhiễu, sứ Mông vô lễ, kinh triều đình, họ còn nhớ rõ thái độ ngỗ ngược của viên thượng thư Sài Thung khinh người như cỏ rác. Vậy mà vua Thiệu Bảo vẫn cứ chịu nhục, đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác không phải vì vua sợ chúng. Dân gian đã biết vua là một người cương nghị, nhưng sở dĩ vua phải chịu nước lép chỉ vì - họ đã biết rõ - vua không muốn chiến tranh. Vua muốn dàn xếp khôn khéo, đem tài ngoại giao mưu lấy cuộc hòa bình, tránh cho bách tính cái thảm họa binh cach. Ngày thường vẫn còn chưa lo đủ cho dân no ấm, huống chi còn chuốc lấy một việc hung. Vốn là nhà chính trị khôn ngoan và sáng suốt, vua Thiệu Bảo biết chiến tranh tai hại, khốc liệt, không lợi gì cho kẻ dự chiến, bên thắng cũng như bên bại, và ông vua giỏi không phải là mộ người cùng binh độc vũ, tìm những thủ đoạn oanh liệt trên chến địa, mà là người biết mưu hạnh phúc cho dân gian trong không khí yên vui.
Vì thế, tuy vua không phải là thiếu dũng, cứu trù trừ mãi, mặc dầu sự yêu sách của Hốt Tất Liệt trở nên gay gắt vô lý. Việc quân Nguyên đòi mượn đường sang Nam đánh Chiêm Thành là một việc không thể nào chiều được. Dân đều biết đức vua lo nghĩ. Họ sốt ruột và sôi nổi vô cùng. Họ không chịu được những nước lép vế. Họ giận thâm gan tím ruột quân Mông Cổ và sứ thần hống hách của chúng, họ lấy làm nhục để vua phải nhường chịu kẻ thù, và muôn người như môt, họ nung nấu lòng phẫn khích, chỉ mong đạt đạo lên vua: Thà chết cả chứ không chịu nhục, dù yếu nhưng không chịu thua mạnh, đó là tâm lý chung của dân chúng kinh thành. Lòng muôn người đều nghĩ đến việc tận trung báo quốc, để cho vua đỡ lo, vai đỡ nặng, mặt đỡ buồn. Họ chỉ đợi một chiếu hưng sự là sẽ bổ ra trước cờ, xin đi đánh giặc.
Vua Thiệu Bảo đã qua bao nhiêu đêm tâm tư, cái thế đã giục triều đình tuốt gươm đáp lại những uy hiếp của nhà Nguyên. Vua đã quyết định, dân muốn quây ngay lấy vua, xin ngài đừng lo ngại. Họ đã sẵn lòng vì vua ủng hộ ngôi báu và giang sơn và quân Nguyên sẽ không qua được nước Nam một khi hơi thở của người cuối cùng chưa tắt… Giữa lúc ấy thì một tờ chiếu ban ra: Trước khi quyết định triều đình cho triệu bô lão trong thiên hạ để trưng cầu ý kiến.
Dân gian ngờ đâu có sự phi thường ấy. Họ còn nhớ rõ như hôm qua, cái ngày trọng đại, trong khi bóng hung tợn của quân Mông Cổ đã hiện rõ ngoài biên, kinh đô đã được trang hoàng như một ngày hội lớn, cờ quạt tàn tán la liệt trong các cung điện, cửa ô và mặt hoàng thành. Thăng Long đã có đại biểu của họ: Mười vị lão thành chủ chiến. Bốn cửa thành mở rộng, để đón các đại biểu, các nơi binh lính tấp nập dẹp đường để giữ trật tự.
Các cụ dần dần tới cả, người thì đầu tóc bạc phơ, người thì hoa râm lốm đốm, ai nấy đều mặc những quần áo mới, hoặc sắm lấy hoặc dân làng sắm cho. Họ từ những hang cùng ngõ hẻm, từ những xóm tre, núi đỏ ở khắp các đường các ngả đi lại, gần thì đi bộ, già quá thì chống gậy trúc, xa thì đi thuyền, đi ngựa hay đi cáng, người nào cũng có dân đinh hay con cháu cắp tráp mang điếu theo hầu. Mặt người nào cũng nghiêm trang, vì tuổi cao cũng có, nhưng vì sứ mệnh lớn lao mà họ mang trên vai già yếu thì nhiều.
Tất cả 300 cụ hơi ngơ ngác vì cảnh sa lệ của thủ đô và vẻ lịch sự của khách kinh kỳ. Nhưng họ đã được nhưng người này chào đón bằng nét mặt đầy cảm tình, bằng những cử chỉ thân ái, bằng những câu cười, tiếng nói niềm nở, bằng khóe mắt thân mật, người ta kiễng giơ chân tay. Trong những tiếng ồn ào thường luôn tuôn ra một điệp khúc rất quen:
- Các cụ xin đánh cả nhé. Xin đánh.
Các cụ gật đàu, miệng nở một nụ cười đồng điệu, họ không ngờ tính tình của những người xa cách hàng bao nhiêu quan san lại có chỗ giống nhau đến thế.
Các cụ đã tiến vào trong điện Diên Hồng, một ngôi nhà uy nghiêm rộng rãi mà nhà vua dùng làm sở tiếp các đại biểu tôn kính của dân gian. Thềm rồng cột tía lần đầu tiên chào đón kẻ quê mùa, chốn sán lạn huy hoàng phản ánh những nét mặt sạm phong trần bày nên một cảnh tượng kỳ thú. Một bữa tiệc đế vương thết các vị chí tôn cùng tất cả danh công cự khanh thân ngồi bồi tiếp. Thiên tử, đại gia và bình dân ôn tồn trò chuyện, thân hơn một bữa ăn trong gia đình. Vua hỏi tuổi, hỏi gia thế, con cháu mọi người, cả việc làm ăn ruộng nương chợ búa, cười nói tự nhiên; lần đầu tiên ngài được thỏa cái tinh thần thân dân của mình.
Đối với các bô lão thì đây là một vinh dự hãn hữu mà phần lớn các quan liêu cũng không bao giờ được hưởng. Họ đăm đăm chờ đợi câu hỏi của chính nhà vua. Mãi đến khi tiệc lớn đã tàn, mọi người đang uống nước, ăn trầu, vua mới đứng lên, nói về sự uy hiếp của quân Mông, sức mạnh và tài chinh chiến của họ, sau cùng tả những nỗi nhục mà triều đình phải chịu đựng, phác qua tình cảnh non sông, cùng cái thế khiến cho mình do dự và tiếp:
- Nay quốc gia nguy ngập, trẫm và triều đình không quyết nổi, vì quốc gia là của chung, nên trẫm phải triệu liệt vị vào đây để hỏi ý. Thế của ta nay chỉ có hai cách: cho nó mượn đường hay đánh lại, xin liệt vị chỉ giáo cho.
Tiếng đáp đã sẵn sàng ngay từ lúc bước chân lên đường, các cụ đồng thanh, muôn người một miệng:
- Xin đánh!
Lời đáp vắn tắt, đanh thép đánh tan mối do dự của quân vương, khích lệ tướng sĩ, thôi thúc dân gian, vẫn còn văng vẳng bên tai mọi người và còn quyện trong núi rừng, ngoài biên ải như một lời cảnh cáo quân thù… Từ khi các bô lão về, người tòng ngũ mỗi ngày một đông, các chiến sĩ ra công luyện tập, và các mõ gọi trai tráng ra đình, ngày đêm không ngớt tiếng rao.
Dân chúng Thăng Long vẫn còn nhớ như in cảnh tượng ngày lịch sử ấy, các bô lão đã thay họ đạt đạo lên cửu trùng ý kiên quyết của bàn dân thiên hạ. Họ ngày nay chỉ nghĩ làm sao giúp vua đánh kẻ thù, vì họ đều cảm thấy mang một trách nhiệm lớn trong cuộc chiến tranh.
"Sát Thát" đã thành hiệu lệnh chung của tất cả mọi người dưới trời Nam.
Sau hội nghị Diên Hồng, vua Thiệu Bảo bác thư Trấn Nam Vương mượn đường, xuống chiếu kể tội quân Nguyên, khuyên mọi người trong nước đồng tâm phá giặc. Và đáp lại thái độ tự vệ ấy của người Nam, theo lệnh truyền của Hốt Tất Liệt, Thoát Hoan kéo 50 vạn quân hùng hổ tiến sang chiếm Nam Quan, xâm lấn Lạng Giang, cướp ải Chi Lăng, tràn xuống Bắc Giang, uy hiếp Vạn Kiếp, thế mạnh như vũ bão. Nhưng tất cả chiến thắng cùng những độc ác của quân thù không làm gãy nổi cái ý chí của dân gian, trái lại, họ càng quây quần chung quanh vua, trong một mối đồng tâm sắt đá. Bắt đầu từ ngày khởi chiến, lấy tư cách là đại biểu của toàn quốc mang trách nhiệm lớn lao hơn cả mọi người, vua Thiệu Bảo sống một cuộc đời khắc khổ hơn một vị tu hành: ăn không dùng miếng ngon, mặc không đòi thứ ấm, bỏ hết những xa hoa phú quý, đêm đêm nằm nghỉ trên một chiếc giường thô kệch. Vậy mà vua vẫn thấy mình còn sung sướng hơn mấy vạn chiến sĩ ngoài biên. Vì vua biết còn được ở cung cấm, xa hàng nghìn dặm cõi sa trường, thì cuộc đời dù cực khổ đến đâu cũng vẫn còn là thần tiên so với cảnh huống của chinh phu.
Vì thế mà cảm tình của dân chúng đối với vua càng thắm thiết. Và sáng hôm nay thấy vua vội vã ra đi, không tiền hô hậu ủng, đoán ngay có sự gì quan trọng chi đây. Họ lũ lượt theo vua như làn sóng dềnh lên bờ sông Cái.
Vua tới bờ sông, dừng lại, cảm động vì lòng quyến luyến của dân gian. Tiếng hô "Vạn tuế" vang lừng trên khúc sông, thốt từ trong thâm tâm thành kính. Vua đứng nhìn mọi người một lượt gật đầu tươi cười, rồi giơ tay ra hiệu cho họ về, nhưng họ vẫn đứng nhìn theo. Vua đã cùng Chiêu Thành Vương, tên tiểu tốt Trần Lai, lúc nào nào cũng theo hầu cận, xuống một chiếc thuyền nan, trên thuyền có hai người thủy thủ. Các thuyền chung quanh cũng nhao nhao tiếng hô "Vạn tuế".
Vua còn đứng trong thuyền nhìn lên bờ sông, đưa mắt chung quanh bến nước, chỗ nào cũng là những con mắt êm dịu, chứa chan thiện cảm mà hồn nhiên ngơ ngác biết bao! Họ im lìm, không biết tỏ lòng trung thành đối với quân vương bằng cách gì hơn. Ông già gù chống gậy dắt trẻ, bà lão cõng cháu, những thiếu phụ ôm con, họ chỉ cho lũ hài nhi ông vua thân mến. Và đẹp biết bao những con mắt trẻ trố ra, long lanh tìm kiếm, ngón tay xinh xinh, theo tay người lớn trỏ về phía thuyền vua. Cũng có đứa lấy làm thích, nhảy nhót vui mừng, lại có ông lão ghé vào tai cháu nói thầm. Đứa cháu cất tiếng se sẽ, trong trong, hô: "Vạn tuế".
Trước sự phát biểu chân thành ấy, vua dùng dằng mãi mới truyền lệnh nhổ sào. Họ vẫn đăm đăm nhìn theo lo ngại cho vua, vì chiếc thuyền bất trắc, mong manh. Tuy vậy, thấy bên cạnh đấng Thiên tử có một vị thân vương uy dũng theo hầu họ cũng yên tâm đôi chút. Những miệng không răng và những miệng còn hơi sữa lại đồng thanh cất tiếng hô:
- Vạn tuế, quan gia vạn tuế. Xin chúc quan gia bình an vô sự!
Họ còn đứng mãi trên bờ cho đến khi thuyền khuất hẳn, và vua cũng đứng trên thuyền nhìn mãi về phía kinh thành cho đến khi bóng người lẫn lộn với không gian. Thuyền vua vun vút như tên. Vua bảo Chiêu Thành Vương:
- Trẫm bạc đức, nghĩ thật không xứng đáng!
Vương tâu:
- Quan gia dạy quá khiêm. Hạ thần cảm khích lắm, đó không phải là triệu mất nước. Được lòng dân thì còn mà mất lòng dân thì hỏng, lòng dân như thế, có đáng lo gì quân giặc?
Vua cùng Chiêu Thành Vương trò chuyện, trong khi thuyền lướt đi trên sông đục. Ban ngày dần dần đã qua, chiều đông u ám càng tăng vẻ thê lương của tất niên. Hai bên bờ sông, cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ, thỉnh thoảng nhấp nhô một chợ chiều vắng ngắt, hay một quán bỏ không. Đường quanh co vào thôn xóm không một bóng người. Cỏ đã héo vàng, và cây trơ lá. Sương cũng xuống với khí chiều, bốc quanh làng mạc và đâu đây một trận gió thổi càng tăng lòng buồn của người lữ thứ, nhất là một người mang nặng những ưu tư. Vua Thiệu Bảo mơ màng nhìn các lũy tre, chưa bao giờ vua thấy vắng tanh và đượm vẻ lạnh lùng, nhuộm màu tang như thế. Lòng vua thấm thía, vua quay bảo Chiêu Thành Vương:
- Hai mươi tư Tết rồi! Tết năm nay buồn quá.
Trước mắt vua, hiện rõ một bức tranh tiêu điều. Mọi năm đến bây giờ gia đình quây quần ríu rít, nay người ta đương thổn thức hay âu lo. Chỉ còn trơ những mái tóc điểm sương tựa cửa, những khăn yếm chạy quanh, những miệng thơ gọi bố. Người ta thiếu một kẻ thân yêu gân guốc, cột trụ của gia đình. Lại còn nhiều nhà mang khăn trở, vì tin dữ đã đưa về. Biết bao quỷ không đầu đang bơ vơ bên mộ phần tiên tổ! Những người còn sống ngẩn ngơ trước bàn thờ lạnh giá, nhớ đến kẻ thân yêu không bao giờ về nữa! Mà đã biết đâu, rồi ra nếu quan quân thất lợi mãi, giặc dữ tràn vào, còn bao nhiêu cảnh điêu tàn. Những thảm họa thực không sao tả hết được.
Vua bỗng xúc động trong lòng, và cảm thấy một niềm thương vô biên, bao trùm cả chúng sinh cây cỏ. Càng nghĩ càng lo, lòng vua càng hoang mang, rối như canh hẹ. Bất giác không trấn nổi được tiếng thở dài.
Chiêu Thành Vương nói:
- Quan gia hãy vững tâm, đợi gặp Quốc công xem sao, đã có điều chi lo ngại đâu?
Khí chiều càng lạnh. Dần dần vua thấy đói. Vì lo việc nước, từ sáng hôm nay, vua chưa dùng một miếng cơm. Liếc nhìn Chiêu Thành Vương vua ái ngại: Chắc cũng như vua, suốt ngày vương nhịn đói. Mình chịu đựng được, nhưng vương thì tính sao. Vua hối mình quá hoang mang, quên khuấy cả một việc tối cẩn. Vương vẫn cung kính ngồi bên, không tỏ một chút gì nóng nảy khó chịu.
Chợt tên tiểu tốt Trần Lai nhìn vua, có ý khác. Vương không để một việc gì lọt mắt, vì vương là một người tinh tế, lại mang một trách nhiệm thiêng liêng. Vương đã nắm đốc gươm, giữ thế. Lai đã buông mái chèo, xô lại gần vua. Vương định nắm đầu tên tiểu tốt, nhưng xem ra thì không có điều gì quan ngại, tuy vậy thanh kiếm đã tuốt khỏi vỏ. Lai ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi. Y còn trẻ, bộ áo lính nghiêm nghị và hơi lùng thùng không làm giảm được vẻ ngây thơ măng sữa.
Vua hỏi:
- Con muốn tâu gì, Lai?
Tiếng run run không rõ:
- Tâu quan gia, tiểu nhân không dám tâu, tiểu nhân có việc này…
Lai bỗng ôm lấy đầu gối vua, òa khóc nức nở. Vua nói giọng hiền như cha:
- Có việc gì con khóc đó, Lai?
- Tâu quan gia, - Lai vừa nói vừa khóc nức nở, - tiểu nhân thấy quan gia từ sáng ngày chưa ăn… Đến như tiểu nhân là kẻ hèn mọn mà còn no bụng. Mẹ tiểu nhân sợ tiểu nhân đi xa, lại nắm cho tiểu nhân một nắm cơm đỏ để ăn đường cho đỡ đói. Tiểu nhân tuy tay chèo nhưng lòng vẫn nghĩ đến quan gia, quan gia dẫu lo việc nước, cũng không nên biếng ăn quên ngủ, ngọc thể có làm sao thì non sông trông cậy vào ai? Tiểu nhân trăm sợ có nắm cơm đỏ đã mấy lần muốn dâng, hiềm vì nỗi thân hèn, vật mọn nên không dám. Nhưng sợ quan gia đói, từ sớm chưa ăn, nên tiểu nhân đánh bạo tâu lên, tiểu nhân thực là đáng chết…
Rồi Lai phủ phục dưới chân vua, thiếp đi vì sợ hãi, hai tay dâng lên một nắm cơm đỏ lớn bọc lá chuối xanh.
Vua Thiệu Bảo xoa đầu Trần Lai, mắt vua rơm rớm lệ. Vua nhìn Chiêu Thành Vương khi ấy đã tra gươm vào vỏ. Ân cần vua tiếp lấp nắm cơm, rồi lay tên tiểu tốt:
- Lai con ngửng đầu lên nghe trẫm bảo.
Trần Lai ngẩng đầu lên, mắt giàn giụa, run bắn người lên. Vua phán:
- Trẫm cảm ơn con. Con đừng sợ. Có lẽ nào trẫm lại quở người có lòng thảo như con. Con chưa hiểu trẫm; trẫm có khó tính đâu. Cơm gạo là của quý, xấu nữa trẫm cũng ăn, trẫm vui lòng lắm. Chỉ có việc này trẫm cũng đủ no rồi. Cơm của mẹ con nắm cho là quý, con nên giữ lấy mà ăn thì phải hơn. Nhưng trẫm không muốn phụ lòng con, sợ con tủi, nên trẫm nghĩ thế này: trẫm nhận ăn nắm cơm dâng, nhưng trên thuyền ta có năm người, trẫm, vương gia, con và hai người kia, không cứ trẫm, mà năm người cùng đói cả. Trẫm tính chia nắm cơm đỏ này thành năm phần, mỗi người một ít thế mới công bình.
Nói xong vua bóc lá chuối vứt xuống sông, tuốt chiếc bảo kiếm đeo bên mình, chia nắm cơm thành năm phần, trao cho mọi người. Giữa khúc sông im lặng, trong bóng tối lạnh lùng, vua ăn đầu tiên một bữa cơm đạm bạc ngon lành hơn cả cao lương mỹ vị đã nếm qua…
Nửa đêm vua tới Hải Đông. Các quan hay tin vua giáng lâm tấp nập ra đón ngoài hành cung. Vì lao tâm lực suốt mấy ngày ròng, vua gây gấy sốt. Vua muốn đi thẳng vào Vạn Kiếp, nhưng các quan khuyên can, nên đành tâm nghỉ ở Hải Đông rồi truyền cho vời Quốc công về hỏi chuyện. Ở Hải Đông biết thêm nhiều tin tức mới, vua càng lo ngại. Đến đây vua mới càng nhận thấy sức mạnh tuyệt đối của quân Nguyên, đánh đâu được đấy, thực có cái thế trúc chẻ, ngói tan. Còn quân nhà thì từ ngày thất thế trên mặt Bắc, thua ở Chi Lăng, tướng sĩ tan vỡ, phần thì chết chóc, phần thì bị bắt, phần thì trốn tránh tan nát, mười phần không còn được một. Những người trung nghĩa, theo Quốc công về Vạn Kiếp, thì ốm yếu tàn tật, tình hình rất nguy khốn.
Quân Nguyên có khí giới tinh xảo, binh lính quen chiến đấu, lại thêm đại bác trợ lực, phá thành cướp trại dễ như trở bàn tay. Đã thế, giặc lại tàn ác. Thoát Hoan giận vì triều đình nước Nam ngang ngạnh, được dịp trả thù, dung túng cho quân càn rỡ, thành thử quân Mông Cổ tự do hoành hành, tàn hại lương dân, phá từng làng từng tổng, đi đến đâu là lửa cháy rực trời, khói bốc ngùn ngụt, làm tội cả đến tiểu nhi, hãm hiếp đàn bà con gái, những thảm họa ở vùng Bắc chỉ có những cảnh ở âm ty địa ngục sánh kịp.
Vua thở dài, thương cảm, lui vào hành cung, nhưng trằn trọc suốt đêm, Hễ chợp mắt thì lại mê thấy cảnh dân gia chạy loạn, quân Mông Cổ hung ác đuổi theo, ngọn giáo dài xâu những xóc đầu lâu mới chém, những tướng hình dung dữ tợn: Ô Mã Nhi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, với những tên cổ quái như quỷ sứ nhà trời…
Trong một lúc vô cùng đau đớn vua rên rỉ một mình:
- Trời ơi! Dân có tội gì?
Và thốt lời nguyền:
- Dẹp giặc xong nguyện xin thế phát xuất gia, phổ độ chúng sinh, cầu cúng cho oan hồn tử sĩ.
Sáng hôm sau vua trở dậy, người đau đớn như dần. Vua cùng Chiêu Thành Vương ra bến sông chờ đợi, nóng nảy và sốt ruột, vua đi đi lại lại, đăm đăm nhìn về phía Vạn Kiếp, hơi một tiếng động nhỏ cũng giật mình như Hưng Đạo Vương tới. Đợi đã lâu. Vua là người có tiếng thuận hòa, vậy mà lúc ấy cũng sinh gắt gỏng. Gần trưa, các quan dâng, vua nể lời mơi, nhưng chỉ dùng một lưng. Giữa lúc lòng vua khó chịu đến cùng độ, thì Trần Lai sẽ sẽ tâu:
- Tâu quan gia, hình như thuyền Quốc công.
Vua bước xuống tận bờ sông. Xa xa, hai chấm đen dần dần hiện rõ hai chiếc thuyền vun vút đi lại, một chiếc tới gần. Hưng Đạo Vương đeo kiếm đứng trước mũi thuyền, gió đánh bạt chòm râu đen dài tuyệt đẹp. Dã Tượng, Yết Kiêu đứng hầu. Thuyền vừa cập bến, Quốc công nhảy xuống tiến lại phía vua, định sụp lạy:
Vua Thiệu Bảo đỡ đại vương và nói:
- Quốc công không phải giữ lễ.
Lòng vua đã trở lại bình tĩnh như thường. Quốc công như có một uy quyền kỳ dị. Giữa lúc mọi người hoang mang, hoài nghi và chán nản, đại vương đem lại một nguồn nghị lực dồi dào. Lòng tin đã bị lung lay trong thâm tâm vua nay đã gần như chôn vững. Chiêu Thành Vương liếc mắt nhìn Quốc công: Đại vương như tất cả đàn ông họ Trần, người cao lớn, nhưng đặc biệt nhất là vai rất nở, mắt rất tinh, tuổi già càng thêm quắc thước. Vương đã nhiều lần gặp Quốc công, nhưng không bao giờ thấy vị đổng nhung đẹp và khôi vỹ như thế. Có lẽ trường chinh chiến ác liệt đã làm rắn tâm can, và mài rũa thêm hùng tài sẵn có của đại vương. Quốc công tâu:
- Để cho quan gia phải nhọc thân, lão phu thực mang tội chết.
Vua nói:
- Quốc công trăm nghìn công việc không mỗi lúc rời quân sĩ được, đáng lẽ thì trẫm phải đến Vạn Kiếp mới phải…
- Quan gia không luận tội là may. Lão phu thân làm đại tướng, mà đến nỗi hao binh tổn tướng, bỏ thành mất đất, thực là hổ thẹn vô cùng. Chẳng hay quan gia vời lão phu đến có việc gì?
- Trẫm thấy nói thế giặc mạnh, lo lắm. Không phải quân ta không có sức, tướng sĩ không tận tâm, nhưng chỉ vì quân giặc quá nhiều, lại thạo nghề chinh chiến, mấy bữa nay lòng trẫm lại càng thương cảm. Trẫm nghe: "Tranh đất cướp quyền, giết người đầy nơi đồng nội". Dân ta có tội tình gì, nghĩ đến kẻ cha mẹ không người nương tựa, trẻ thơ toàn một lũ mồ côi, trẫm ái ngại lắm. Huống chi họ ta lên làm vua, ân huệ chưa thi đủ cho thiên hạ, mà bắt bách tính làm than cơ cực như thế này trẫm càng không nỡ…
Ngập ngừng một lát, vua nói tiếp:
- Hay là trẫm hãy tạm hàng đi đã rồi sẽ liệu sau…
Vị đại vương mà tất cả biến cố trong đời đều không làm rung chuyển được lòng, nghe vua nói đến đây cũng hơi biến sắc mặt. Quốc công nhìn vua, lâu lâu chậm rãi nói:
- Quan gia nói thế thật là nhân đức, nhưng còn tông miếu xã tắc thì sao?
Lời nói thấm thía vô cùng! Rồi chuyển giọng, Quốc công trụt khăn, quỳ xuống, cất lời khảng khái tâu rằng:
- Quan gia muốn hàng, xin trước hết chém đầu lão phu đi đã.
Giọng Quốc công đã hay, lời Quốc công lại mạnh, câu nói đanh thép đầy tự tin, như giội một luồng sinh khí vào ông vua héo hon vì do dự. Bao nhiêu lòng hoài nghi tan hết, vua như choàng tỉnh một cơn mê. Vua nâng đại vương dậy, thẹn thò vì lời nói hèn nhát của mình. Tất cả những người đứng chung quanh ngây người vì câu đáp rắn rỏi, nhìn cả vào Quốc công, lòng kính ái, và mạch máu cuồn cuộn say sưa phấn đấu. Tiếng đáp còn quyện trong gió mây. Chiêu Thành Vương cũng ngạc nhiên vì câu nói bất ngờ của vua Thiệu Bảo, chàng lại nhận thấy nỗi thẹn của vua. Chàng có cảm tưởng rằng khi ấy Quốc công là một bó đuốc dẫn đường. Ngay trong lòng chàng, những tro tàn chán nản cũng biến thành than hồng tin tưởng.
Vua hỏi:
- Trẫm hối đã làm phiền Quốc công, Chỉ vì trẫm quá lo và thương dân, nên mới có ý quy hàng. Xin Quốc công lượng thứ cho.
Hưng Đạo nói:
- Quan gia lo là phải lắm, thương là phải lắm, nhưng lão phu liệu thế giặc, xem tình nước, non sông chưa đến nỗi nào. Quân giặc có được, quân ta có thua, đất cát có mất, tướng sĩ có nản, dân tâm có chấn động, tình thế có nghiêm trọng, nhưng những cái đó chỉ là bề ngoài và nhất thời. Nội tình của ta vẫn vững vàng và thực lực của ta có thể đánh lại quân Nguyên; chúng như quả đẹp, nhưng con sâu đã đục sẵn ở trong. Riêng vì sự bạt thiệp sơn xuyên, đài tải nặng nhọc, cũng đã yếu rồi. Còn quân ta như quả đương chín, mới trông còn xanh, có nhận rõ mới biết nhựa sống rất nhiều.
Riêng một việc cả nước đồng tâm, tướng sĩ một lòng phò tá cũng đủ đuổi giặc rồi. Đó là ái thế thắng sau này, sao ta lại nỡ phụ ý dân để chuốc tiếng xấu cùng thiên hạ? Vả lại, giữ được có cơ còn thúc thủ, bỏ đi thì mất không bao giờ lấy lại được. Mà trong việc đánh nhau, người thắng không cần sức khỏe mà cần phải dai. Quan gia chắc còn nhớ gương Cao Tổ nhà Hán vậy. Đến như việc thương dân, lòng từ bi của quan gia, lão phu thực không sánh kịp. Nhưng chỉ nghĩ: thương dân không cứ phải thương kẻ đương thời, còn phải thương đến con cháu muôn đời nữa.
Đó là suy rộng ra mà nói thôi. Thực ra tình thế vẫn vững. Lão phu về Vạn Kiếp, quân tướng cũng còn nhiều, lại mới khởi quân tất cả được 10 vạn quân. Kể cả số quân đóng ở kinh thành và các nơi, tổng số trên hai mươi vạn còn đủ tranh hùng cùng rợ dữ, bảo vệ xã tắc, đã có điều chi đáng ngại, cúi xin quan gia cứ yên tâm. Việc rối ta gỡ dần rồi cũng gỡ được. Lão phu quyết không phụ lòng ủy thác của quan gia và lòng dân tin cậy. Lão phu đã có mưu đuổi giặc.
Lòng vua thắt chặt, đến đây hoàn toàn cởi mở. Vua cảm thấy một nguồn vui mênh mang tràn ngập lòng, vô cùng êm dịu. Tất cả những khó khăn, đều có thể san phẳng được, trong ý vua. Mặt vua mấy bữa nay rầu rầu đột nhiêu trở nên tươi tỉnh, lời nói biến thành mạnh mẽ!
Vua phán:
- Trẫm nhờ Quốc công giảng cho điều hơn thiệt, như được người trích cho nhọt độc, vén cho mây mờ. Trẫm không còn nghi ngại gì nữa, ý trẫm đã quyết, trẫm thề cùng quân giặc không đội trời chung, chống cự đến cùng, trừ khi nước sông này chảy ngược trẫm mới sai lời thề.
Hưng Đạo tâu:
- Lão phu cũng xin vì quan gia lo liệu đại sự, kỳ cho đuổi được giặc dữ rửa nhục cho non sông mới thôi.
Vua mừng rỡ, muốn ngỏ cho mọi người biết lòng vui cuồng nhiệt của mình. Trong lúc nhiệt thành, vua nhớ đến miền hậu thuẫn của non sông, vùng Hoan Ái hiểm trở, tiềm tàng một sức mạnh dồi dào chưa dùng đến, ẩn trong những bắp thịt nở nang, những nghị lực phong phú, óc vua bỗng nảy hai câu thơ hùng kiện.
Vua giữ Quốc công ở lại uống rượu, Quốc công tâu:
- Lão phu được về đây, diện kiến quan gia, đã thỏa bụng khát khao lắm rồi. Việc quân đang bách, không chóng thì chầy, Thoát Hoan sẽ về Vạn Kiếp, lão phu không thể nấn ná ở lâu được nữa. Cúi xin quan gia miễn tội cho.
- Trẫm không dám giữ Quốc công, trăm sự xin nhờ Quốc công cả. Chỉ mong chóng thái bình, trẫm được nâng chén rượu giai lão mừng Quốc công mới thỏa nguyện.
Bấy giờ trời về chiều, mây ám phủ đầy bốn phương đặc một màn sát khí, xa xa về phía Vạn Kiếp rực rỡ một đám hào quang như ngọn đuốc tỏ giữa đêm đông lạnh. Vua quyến luyến mãi không nỡ rời tay, cùng Quốc công nói chuyện mãi. Khi tới bờ sông, vua bỗng cầm tay Hưng Đạo nói:
- Xin Quốc công hãy dừng lại. Trẫm mới nghĩ ra hai câu thơ này gửi cho quan quân tướng sĩ ở Vạn Kiếp. Trẫm nhờ Quốc công nói với mọi người rằng trẫm có lời hỏi thăm, và nhân dịp cuối năm có câu thơ chúc Tết, riêng tặng anh hùng. Còn trẫm thì xin theo gương tướng sĩ, đồng tâm phá giặc, tiếp ứng quân nhu, khí giới, nằm gai nếm mật cho kỳ dẹp tan cường khấu, thu phục sơn hà, rửa nhục cho nòi giống, báo thù cho tử sĩ, khi ấy trẫm mới chịu thôi.
Trần Lai dâng nghiên bút. Vua cúi xuống đuối chiếc chiến thuyền của Quốc công, trịnh trọng viết hai câu thơ hùng tráng:
Cối Khê cựu sự quân tu kỷ,
Hoan Ái ta còn thập vạn binh.[1]
Hưng Đạo nhìn vua, hiểu ý, lạy vua rồi bước lên thuyền. Vua tôi trông mãi nhau. Vua Thiệu Bảo lặng im, như để hồn nhè nhẹ vương theo thuyền đại tướng về chung dụng với những tráng sĩ ở Vạn Kiếp, đang mang nặng một nhiệm vụ thiêng liêng.
Tối đã bao phủ mình vua, vua chỉ nhận rõ thân hình cao cao của Chiêu Thành Vương đúng cạnh. Và vua phán:
- Thôi chú cháu ta về. Bây giờ trẫm mới yên tâm.
__
[1] Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ,
Hoan Ái ta còn mười vạn binh.
(Chú thích theo bản in năm 2001 của Nhà xuất bản Kim Đồng)
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
Bình luận truyện