Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục

Chương 52 : Trieste

Người đăng: hauviet

Ngày đăng: 18:40 20-07-2025

.
Chương 52: Trieste Ngày 15 tháng 12 năm 1866. Trieste, hải cảng quan trọng nhất của Đế quốc Áo. Kể từ sau khi chiến tranh Áo–Phổ kết thúc, Áo thông qua Pháp chuyển giao Venice cho Ý, Trieste nghiễm nhiên trở thành cảng biển duy nhất và quan trọng nhất của Đế quốc Áo-Hung sắp ra đời (tháng 2 năm 1867). Hiện tại, chính phủ Áo đang tiến hành đàm phán với giới quý tộc Magyar của Hungary, hai bên tranh luận kịch liệt về quyền lợi và nghĩa vụ. Tháng Hai năm sau, đôi bên đạt được thỏa hiệp, giới quý tộc Magyar ở Hungary giành được quyền lợi ngang hàng với người Áo, song người Magyar phải cam kết giữ Hungary trong lòng Đế quốc – đây chính là chế độ song trùng. Trieste là trung tâm đóng tàu và trung tâm thương mại – vận tải biển của Đế quốc Áo-Hung. Từng giao tranh với Venice suốt hai thế kỷ, người dân bản địa sau đó chủ động cầu viện nhà Habsburg, được sáp nhập vào Đế quốc Áo, từ đó trở thành phần lãnh thổ cốt lõi của Áo. Trieste thực chất có phương ngữ riêng, nhưng do số lượng người Ý tăng lên, cùng với thời kỳ Cộng hòa Venice từng hưng thịnh và ảnh hưởng của văn hóa Ý trên toàn châu Âu, việc sử dụng tiếng Ý đã trở thành xu hướng chính. Sau Thế chiến I, Ý đã dùng lý do "người Trieste nói tiếng Ý" để thôn tính vùng đất này. Áo mất Trieste sau 500 năm cai trị - minh chứng rõ nhất cho sự bất lực của đế quốc Áo-Hung. Ngày nay, thành phố này vẫn giữ đậm phong cách Vienna, dân số nói tiếng Đức cũng không ít. Nếu khi ấy chính phủ Áo tích cực triển khai giáo dục tiếng Đức tại đây, thì đâu đến mức để sau Thế chiến I, nước Áo biến thành quốc gia không giáp biển. Trieste về sau cũng từ viên minh châu của Đế quốc Áo-Hung biến thành một thành phố tầm thường của nước Ý. Từ đó thấy được sức mạnh của ảnh hưởng văn hóa. Trieste vốn nói phương ngữ bản địa, nhưng do giao tiếp lâu dài với các quốc gia Ý (đặc biệt là Venice), rốt cuộc chuyển sang nói tiếng Ý, và cuối cùng bị Ý sáp nhập. Đây cũng chính là lý do Ernst muốn cải tổ hệ thống giáo dục cho dân nhập cư tại Thuộc địa Đông Phi: chỉ cần hình thành được bản sắc dân tộc cho dân nhập cư, thì tương lai Đông Phi chỉ còn những “người Đức chính gốc”. Hiện nay, Trieste đã nối liền trực tiếp với thủ đô Vienna của Áo, tuyến đường sắt đến Vienna đã được xây dựng từ năm 1857. Tựa lưng vào toàn thể Đế quốc Áo-Hung làm hậu phương kinh tế, Trieste trở thành thành phố lớn thứ ba trong Đế quốc, chỉ sau Vienna và Prague. Với tư cách là cảng biển số một của Đế quốc Áo-Hung, nơi đây phụ trách cung ứng than đá và vận tải hàng hóa đối ngoại cho toàn Đế quốc, đồng thời cũng là đại bản doanh của Hải quân Đế quốc Áo-Hung. Được mệnh danh là “Bờ biển Xanh của Đế quốc Áo-Hung”. Khi ấy, Trieste thực sự là một trong những đại đô thị của châu Âu và thế giới. Còn khi rơi vào tay Ý, Trieste biến thành thành phố biên giới. Mất đi hậu phương kinh tế, Trieste không còn chỗ đứng trong hàng ngũ các cảng biển của Ý thời hậu thế. Thậm chí rất nhiều người Ý còn không biết đến thành phố Trieste. Người đời sau chỉ có thể biết đến cái tên này qua bài diễn văn “Bức màn sắt” của Churchill: ." “Từ Szczecin (Stettin) bên bờ biển Baltic đến Trieste bên bờ biển Adriatic, một bức màn sắt đã buông xuống khắp châu Âu.” – Churchill ... Ernst đi dạo trên đường phố Trieste. Hiện nay Ernst cũng coi như là nửa chàng rể của nhà Habsburg, nhân cơ hội này có thể mượn danh nghĩa để đầu tư trong lãnh thổ Đế quốc Áo-Hung. Trieste chính là một trong những mục tiêu của Ernst, hắn định xây dựng nơi đây thành trung tâm cho đội tàu viễn dương thương mại Đông Phi. Tuy rằng chức năng có phần trùng lặp với Venice, nhưng Ernst vẫn muốn chia trứng vào hai giỏ khác nhau. Dẫu sao Venice và Đế quốc Áo-Hung giờ đây cũng coi như hai quốc gia khác biệt. Nếu hàng hóa từ Áo vận chuyển qua Venice, sẽ bị chính phủ Ý thu thuế thêm một lần. Do đó, xưởng đóng tàu vẫn đặt tại Venice, còn đội tàu thì đổi bản đồ, phát triển tại Trieste. Chọn Trieste không chỉ vì lý do kinh tế, mà quan trọng hơn là để đưa người nhập cư sang Đông Phi. Vấn đề dân nhập cư da trắng luôn làm Ernst đau đầu. Người Đức trong lãnh thổ Phổ rất khó bị thuyết phục sang Đông Phi, trình độ học vấn cao (so với các khu vực khác ở châu Âu) là một phần, hơn nữa Phổ đang phát triển mạnh, cơ hội nhiều, người chọn ra nước ngoài lập nghiệp lại càng ít. Những người Đức từng ra châu Mỹ liều mình một phen, một phần là do châu Mỹ phát triển sớm, môi trường sống tốt. Một phần khác là do không sống nổi ở Phổ – nhiều người trong số họ là tội phạm, lưu manh, đã bị chính phủ Phổ ghi chép trong hồ sơ. Tất nhiên, cũng không thiếu người đầy tham vọng muốn làm giàu. Mà hai loại người này vừa nhìn là nhận ra ngay – không phải kiểu dân mà Thuộc địa Đông Phi cần. Đưa sang sẽ chỉ gây bất ổn cho khu vực. Đế quốc Áo-Hung thì khác. Từ khi thành lập đến nay, quốc lực đã luôn trên đà suy giảm, mức độ công nghiệp hóa thấp, mâu thuẫn dân tộc gay gắt – đây chính là cơ hội cho Ernst khai thác. Dân số của Đế quốc Áo-Hung chỉ đứng sau Nga hoàng và Đức (vốn đã bị loại khỏi danh sách), trình độ học vấn của người dân thì kém xa người Đức, chỉ nhỉnh hơn Nga một chút. Người mù chữ, không biết một chữ cứng đầu, cực kỳ nhiều. Nông dân không có học thức, tức là có thể thông qua giáo dục để cải tạo bản sắc văn hóa – đây chính là kiểu dân nhập cư lý tưởng cho Thuộc địa Đông Phi. Nông dân chưa từng được đi học, trong bất kỳ thời đại nào cũng đều có khả năng sinh sản cao nhất. Nhưng đất đai ở Áo-Hung thì không thể tự dưng tăng lên, thêm vào đó là tầng lớp quý tộc trong nước bóc lột quá mức. Những nông dân này, hoặc là vào thành phố làm công nhân, song rõ ràng công nghiệp của Đế quốc Áo-Hung không thể hấp thụ lượng dân số lớn đến vậy. Hơn nữa, nhà máy thành phố chưa chắc dễ sống hơn làm ruộng. Hoặc là nổi dậy chống lại tầng lớp quý tộc địa phương – trong một quốc gia bảo thủ như Đế quốc Áo-Hung, tỷ lệ thành công gần như bằng không. Lựa chọn cuối cùng: xuất ngoại, đi nơi khác tìm cơ hội việc làm. Khác với người Đức đã được giáo dục, nếu bạn nói với một người Đức rằng sang Đông Phi làm việc và sinh sống, họ chắc chắn sẽ nghĩ bạn là kẻ lừa đảo – chỉ có lính đánh thuê và người làm công tác thuộc địa chuyên nghiệp mới đi. Còn dân thường ở đáy xã hội Đế quốc Áo-Hung, bạn nói với họ “sang Đông Phi”, có khi câu đầu tiên họ hỏi lại là: “Đông Phi là ở đâu?” Lúc này, chỉ cần tăng cường tuyên truyền, miêu tả Đông Phi thành miền đất hứa, rồi tìm vài người giả làm “người từng trải” để thuyết phục – dù sao thì trong nước cũng không có ruộng, cũng không tìm được việc, chi bằng ra nước ngoài thử vận may. Những nông dân này dù sao cũng không dễ dụ như người Hoa, bởi lẽ dân Hoa lúc ấy thực sự cùng đường mạt lộ, còn dân Áo-Hung vẫn miễn cưỡng sống qua ngày. Nếu quay về thời kỳ còn chế độ nông nô thì càng không có cửa – vì khi ấy, nông nô là tài sản tư hữu của quý tộc, muốn dụ họ ra đi phải đàm phán với quý tộc địa phương. Giờ thì đúng lúc – chế độ nông nô vừa mới bị bãi bỏ, những nông dân này không còn được quý tộc chăm lo nữa, ăn mặc ở lại hoàn toàn phải tự mình lo liệu. Nông dân không có đất trong tay, chỉ có thể tiếp tục làm thuê cho quý tộc, nhưng dân số thì ngày một đông, công cụ sản xuất lại ngày một hiệu quả, nên không cần nhiều người làm ruộng như trước. Thế là, nông dân không đất chỉ có thể vào thành phố làm thuê nuôi gia đình. Dân nông ồ ạt đổ vào thành tìm việc, nhưng công nghiệp của Đế quốc Áo-Hung lại không phát triển, không thể hấp thụ nổi lượng lao động khổng lồ. Ernst liền tổ chức người của công ty đến từng thành phố trong Đế quốc Áo-Hung, dưới danh nghĩa tuyển dụng, dụ dỗ nông dân thất nghiệp sang Đông Phi phát triển. Không chỉ có lương, mà còn được bao ăn ở. Tương lai kiếm được tiền còn có thể quay về châu Âu. Công nhân nông nghiệp cũng là công nhân, Ernst nói vậy cũng không sai. Bao ăn ở là thật – chỉ là chỗ ở phải tự xây, còn ăn thì phải ăn nông sản trồng được từ đất của mình. Còn lương? Nói thật thì chỉ đủ sống, nhưng vẫn có thể dành dụm chút ít. Gì cơ? Không đủ nuôi cả nhà à? Vậy thì ngươi quả là gặp đúng thời rồi. Khuyến khích cả gia đình sang làm việc tại Thuộc địa Đông Phi – như vậy cơ bản là không lo cơm áo, hơn nữa còn được miễn phí giáo dục cho con trẻ. Còn chuyện sau này có quay về châu Âu không? Cũng có khả năng – làm độ bốn, năm năm là có hy vọng. Dù sao thì đội tàu thương mại của Thuộc địa Đông Phi hiện tại chỉ có tuyến vào chứ không có tuyến ra, mà số tàu cũng chẳng có mấy chiếc. Nếu muốn quay về châu Âu bằng tàu thương mại của các quốc gia khác, vé tàu không hề rẻ. Không ở Đông Phi làm vài năm thì chắc chắn không đủ tiền mua vé. Hiện tại phát triển tại Đông Phi, thì chỉ có thể nuôi sống bản thân và gia đình, chứ đừng mong phát tài. Thuộc địa Đông Phi không có nhiều ngành nghề hỗn tạp như châu Mỹ, không tồn tại khái niệm “khởi nghiệp”. Đất đai có giá trị đều thuộc quyền sở hữu của chính quyền thuộc địa, muốn bắt chước người Mỹ xây trang trại ở miền Tây là điều không thể. Tuy nhiên, điểm mạnh của Đông Phi là: chính quyền thuộc địa chịu trả phí tàu cho người dân sang đó định cư – điều này hơn hẳn châu Mỹ, vì chính phủ Mỹ chưa bao giờ chủ động trả tiền cho bạn vượt Đại Tây Dương. Còn một điểm nữa khi đến Đông Phi: công việc vẫn là trồng trọt – sở trường vốn có của bạn. Nếu sang châu Mỹ, không có tay nghề, bạn cũng chỉ làm lao động phổ thông. Nhưng trồng trọt thì bạn đã quen, không ai có thể lừa bạn được. Cuộc sống dù có khốn khổ cũng không khổ bằng hồi còn làm nông nô. (Hết chương) Chú thích: [1] Trieste: Thành phố cảng thuộc Đế quốc Áo (sau là Áo-Hung), hiện nay thuộc Ý, từng là cảng biển lớn nhất của Đế quốc Áo-Hung. [2] Song trùng Áo-Hung (1867-1918): Chế độ liên hiệp dưới quyền Habsburg, chia sẻ quân đội/ngoại giao nhưng độc lập về hiến pháp, nghị viện. [3] Magyar: Tên dân tộc chỉ người Hungary, thường dùng trong ngữ cảnh lịch sử và chính trị của Đế quốc Áo-Hung. [4] Bức màn sắt: Cụm từ nổi tiếng trong bài diễn văn của Winston Churchill (1946), đánh dấu sự phân cực Đông–Tây thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
.
 
Trở lên đầu trang