Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục

Chương 50 : Giáo dục

Người đăng: hauviet

Ngày đăng: 18:37 20-07-2025

.
Chương 50: Giáo dục Ngày 9 tháng 12 năm 1866. Hôm nay tại Hechingen lại khánh thành thêm một ngôi trường nữa - Trường Văn hóa Hechingen. Thực chất, đây là một trường tiểu học, khác với Học viện Quân sự Hechingen ở chỗ, ngoài việc chiêu sinh học viên người Hoa, còn tuyển sinh tại địa phương Hechingen. Suy cho cùng, nếu đã học tại Học viện Quân sự Hechingen thì cuối cùng đồng nghĩa với việc phải sang Đông Phi. Vậy nên phụ huynh người Đức nào lại vội vàng đưa con mình sang châu Phi? Do đó, ngoài học viên người Hoa, học viên người Đức tại Học viện Quân sự Hechingen chủ yếu là trẻ mồ côi từ khắp các vùng của Đức. Trường Văn hóa Hechingen thì khác. Đây là một trường học chính quy, trong khi Học viện Quân sự Hechingen về bản chất là một “Đại học vỉa hè”. Học viện Quân sự Hechingen không thuộc hệ thống giáo dục của Phổ, nguồn tuyển sinh hoàn toàn là do học viện tự chủ, và hướng đi sau tốt nghiệp cũng đã định sẵn. Còn Trường Văn hóa Hechingen đã được đăng ký với chính quyền Phổ. Học sinh người Hoa ở đây đều mang danh nghĩa là “du học sinh” để theo học. Học viên của Học viện Quân sự Hechingen có thể được Ernst cấp hộ tịch thuộc địa Đông Phi, còn học viên người Hoa tại Trường Văn hóa Hechingen trong hồ sơ của chính quyền Phổ vẫn được ghi là người Hoa. Suy cho cùng, những học sinh người Hoa này sau này còn phải tiếp tục học tại các trường khác ở Đức. Nếu không có giấy tờ tùy thân do chính phủ cấp, trên lý thuyết họ đều là “người không hộ khẩu”, vậy nên dùng danh nghĩa du học sinh để che chắn, còn Ernst thì làm người bảo lãnh. Học viện Quân sự Hechingen chỉ đáp ứng nhu cầu nhân lực quân sự, trong khi Ernst cần nhân tài chuyên môn trong mọi ngành nghề trong tương lai. Để sử dụng hiệu quả nguồn lực giáo dục hạn chế, học viên có thành tích học tập xuất sắc có thể tiếp tục học tại các trường trung học ở Đức, đồng thời Ernst cũng có kế hoạch mở một trường trung học. Sau đó, những người xuất sắc nhất sẽ được Ernst tiến cử đến các trường đại học ở Đức để dự thính, học tập. Còn những người học kém, sau khi tốt nghiệp chỉ có thể vào nhà máy của Ernst để vặn ốc vít, tất nhiên cũng có thể dự tuyển vào Học viện Quân sự Hechingen, sau đó đến thuộc địa Đông Phi làm lính, hoặc trở thành giáo viên tiếng Đức. Hiện nay, khu Duyên Hải đã bắt đầu thí điểm giáo dục tiếng Đức. Ngôi trường tiểu học dạy tiếng Đức đầu tiên đã được thành lập tại Trấn thứ Nhất. Thuộc địa Đông Phi yêu cầu toàn bộ người Hoa nhập cư ở Trấn thứ Nhất phải đưa con em đến học tại trường tiểu học tiếng Đức này. Giáo viên của trường chính là các học viên tốt nghiệp từ Học viện Quân sự Hechingen, giáo trình cũng là sách giáo khoa mà họ từng sử dụng. Về vấn đề giáo dục người nhập cư, tất nhiên phải bắt đầu từ lớp trẻ. Thế hệ người nhập cư lớn tuổi không đòi hỏi phải biết tiếng Đức, chỉ cần nắm được vài từ thông dụng là đủ. Những người Hoa trưởng thành này tư duy đã định hình, cũng đã qua độ tuổi thích hợp nhất để học tập. Nếu muốn xóa mù chữ một cách toàn diện, chi phí phải bỏ ra có thể tưởng tượng được, mà hiệu quả cuối cùng cũng chưa chắc đã như mong đợi. Chỉ cần để họ nhận thức được rằng tiếng Đức mới là tương lai của thuộc địa, thì những người lanh lợi trong số họ sẽ tự giác học tiếng Đức. Thực tế, một số người nhập cư nhạy bén đã học được những câu tiếng Đức đơn giản thông qua tiếp xúc với quan chức thuộc địa, từ đó được bố trí làm cán bộ quản lý. Đối với người nhập cư trong thuộc địa, việc cho con cái đi học không tạo ra gánh nặng tâm lý nào. Dẫu sao cũng có câu: "Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao." Giới quan liêu ở Viễn Đông thực sự đã dùng sự độc quyền tri thức và giáo dục để chặn đường thăng tiến của dân chúng. Như trong các vở kịch dân gian có câu: "Chỉ cần đỗ Trạng nguyên, muốn gì được nấy." Dân thường dù chưa từng ăn thịt lợn, nhưng cũng đã thấy lợn chạy. Những cử nhân, tú tài và quan lại bản xứ - những người đi lên từ con đường học vấn - đều gặt hái lợi ích thiết thực. Dù chỉ là tú tài, họ vẫn có thể nhờ việc dạy học mà thoát khỏi lao động chân tay, chưa kể đến các đặc quyền về thuế và địa vị xã hội được nâng cao. Giáo dục tại thuộc địa Đông Phi dĩ nhiên không phải là kiểu giáo dục sàng lọc quan lại như ở Viễn Đông, mà đơn giản chỉ là xóa mù chữ cho con em di dân bình thường. Tất nhiên, ở giai đoạn đầu, những ai càng sớm được tiếp cận với giáo dục bắt buộc sẽ càng được hưởng nhiều lợi ích hơn - chẳng hạn như các vị trí công việc tốt tại thuộc địa chắc chắn sẽ ưu tiên những người đã qua đào tạo giáo dục thuộc địa. Tương lai khi giáo dục bắt buộc phổ cập toàn Đông Phi, thì loại lợi ích này sẽ dần biến mất, và trở thành điều kiện tối thiểu. Chương trình học tại trường đầu tiên của Đông Phi thực ra rất đơn giản: ngoài dạy tiếng Đức, chỉ có các phép cộng trừ nhân chia cơ bản, cuối cùng là giáo dục tư tưởng “trung quân ái quốc”. Vì vậy, các em học sinh mỗi ngày chỉ học nửa buổi, buổi sáng học tại trường, buổi chiều vẫn có thể về nhà giúp đỡ gia đình. Để cải thiện chất lượng cuộc sống, người nhập cư thường làm thêm một số việc tạo thu nhập nhỏ, ví dụ trồng rau gần nhà hoặc nuôi gà vịt. Thuộc địa không can thiệp vào những việc này. Chỉ cần hoàn thành đúng thời hạn công việc được phân bổ, thời gian còn lại có thể tự sắp xếp. Vì Đông Phi có đất đai tương đối rộng rãi, nên còn rất nhiều đất nhàn rỗi. Ví dụ như nhà của người nhập cư, không giống như ở Viễn Đông chật chội, ở đây được bố trí phân tán. Khi quy hoạch đã chừa ra hai khoảng đất trước sau: một cái làm vườn, một cái làm kênh thoát nước. Khái niệm “vườn hoa” đối với người Hoa nhập cư là điều chưa từng nghe thấy. Đất ấy chẳng bằng để trồng rau. Kênh thoát nước đặt sau nhà, thực tế cũng không cần đến quá nhiều đất. Bên cạnh mương nước, chỉ cần xới đất lên là có thể trồng thêm hoa màu. Những khoản thu nhập tăng thêm từ việc tận dụng đất trống đều thuộc về di dân, không phải nộp lên. Chỉ có nơi ở của người Đức là thật sự có vườn hoa và bãi cỏ phía trước, còn phía sau kênh thoát nước thì bỏ hoang. Điều này chỉ thể hiện sự khác biệt về thái độ sống giữa hai nhóm người. Vả lại, tiền lương của người Đức cao hơn, công việc cũng nhàn hơn. Người Đức cũng tỏ ra hiếu kỳ khi thấy người Hoa nhập cư trồng rau trong vườn. Đôi khi họ chủ động hỏi những người Hoa rằng: đây là rau gì, dụng cụ kia dùng để làm gì. Người Hoa khi lên tàu sang Đông Phi không phải tay không mà đi. Thuộc địa không tịch thu đồ đạc của họ, nhưng những vật quá cồng kềnh thì không thể đem theo. Một số người Hoa mang theo hạt giống thực vật trong túi áo, thế là chúng được đưa tới Đông Phi, khiến trên đất châu Phi xuất hiện đủ loại rau Viễn Đông. Đất đai châu Phi rất thích hợp cho rau màu sinh trưởng. Suy cho cùng, rau bản chất cũng là một loại cỏ, mà châu Phi thì rất hợp cho cỏ phát triển, vì vậy mới sở hữu thảo nguyên cây bụi lớn nhất thế giới. Ở đây không có mùa đông, chỉ cần đảm bảo đủ nguồn nước thì cây cối sẽ không ngừng sinh trưởng. Giữa người Đức và người Hoa nhập cư còn có sự khác biệt về nhận thức. Người Đức rất coi trọng lãnh địa, nếu chưa được họ cho phép thì người khác không thể vào sân nhà họ. Trong khi người Hoa thì hay sang nhà nhau chơi, không có khái niệm lãnh địa. Người Hoa cũng không chủ động vào sân nhà người Đức, vì họ vốn cảm thấy mình ở “thấp một bậc”. Thực ra những người Đức này cũng không có tư tưởng ngạo mạn. Sau khi tiếp xúc với người Hoa, họ có ấn tượng khá tốt, vì suy cho cùng ai cũng là nông dân xuất thân, trao đổi chút kinh nghiệm trồng trọt là có cảm tình ngay. Người Hoa nhập cư không để tóc đuôi sam, lại chăm chỉ và sạch sẽ — tất cả đều là kết quả từ quy định nghiêm ngặt của thuộc địa, mà người Hoa thì lại rất tuân thủ, nên che lấp được một số khuyết điểm. Còn người Đức ở thuộc địa Đông Phi cũng là những người dân quê vùng Phổ, không chú trọng tiểu tiết. Khác biệt duy nhất giữa hai bên là người Đức đã từng trải qua giáo dục bắt buộc, nên trình độ văn hóa tương đối cao — tuy chỉ ở trình độ tiểu học — nên phẩm chất cũng chỉ ở mức giới hạn. Người Hoa nhập cư trong mắt những người nông dân Đức này là dễ giao tiếp. Tư duy của nông dân bình thường vốn chất phác, không quanh co phức tạp. Không giống như hậu thế, một số người ra nước ngoài rồi lại tùy tiện hái hoa, bẻ cành trong sân nhà người khác. Khi bị phê bình thì giả vờ oan ức, lý sự cùn. Nói họ vô học thì không đúng, vì họ cũng đã ra nước ngoài, chắc chắn học vấn không thấp — cho nên học vấn và phẩm chất không nhất thiết phải tỷ lệ thuận. Đây là tình cảnh người Hoa từng gặp phải ở các nước phát triển. Khi Ernst ở châu Phi, người Hoa đúng là “người người chê, chó chó ghét”. Tại công trường nơi Ernst làm việc có rất nhiều công nhân từ quê nhà. Trình độ học vấn của họ không cao. Ít nhất những người Ernst quen biết hầu hết chỉ học hết cấp hai, cấp ba, nhưng ở châu Phi thì coi người bản địa như trò đùa. Mỗi ngày đều tỏ ra ngạo mạn, cho trẻ em bản địa ít kẹo bánh, rồi dạy mấy câu “ngốc nghếch”, quay clip rồi đăng lên mạng xã hội, tỏ vẻ thượng đẳng. Nhưng thực ra, dân bản địa nào có coi họ ra gì? Có khi còn xem họ là lũ ngốc. Dù Ernst cũng chẳng quý gì người bản địa, nhưng nền giáo dục quê nhà khiến Ernst không thể làm ra những hành vi thất lễ như vậy - quá rẻ tiền. Mà ở thời đại này, vì quốc lực yếu kém, dân sinh khốn khó, lại chịu ảnh hưởng từ nền giáo dục nô lệ, người Hoa nhập cư ra nước ngoài nào dám ngạo nghễ như hậu thế. Cẩn trọng rụt rè mới là chân dung thực tế, vì thế người Hoa nhập cư sẵn sàng nhường một bước để giữ hòa khí, nên có thể chung sống hòa thuận với người Đức. (Hết chương) Chú thích: [1] Tú tài/Cử nhân: Học vị trong hệ thống khoa cử phong kiến Trung Hoa, Tú tài là cấp thấp nhất, Cử nhân là cấp cao hơn, đỗ qua kỳ thi Hương.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
.
 
Trở lên đầu trang