Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục
Chương 49 : Phòng chống dịch bệnh
Người đăng: hauviet
Ngày đăng: 18:37 20-07-2025
.
Chương 49: Phòng chống dịch bệnh
Ngày 7 tháng 12 năm 1866, thuộc địa Đông Phi.
Vùng Hồ Lớn (hồ Victoria), Mwanza.
Hiện nay, vùng Hồ Lớn là nơi có dân số di dân đông thứ hai trong Thuộc địa Đông Phi, chỉ sau vùng Thượng Duyên Hải. Tại đây là vịnh Mwanza, nằm sát Hồ Lớn (hồ Victoria).
Vùng Hồ Lớn có nguồn nước dồi dào, đất đai phì nhiêu, khí hậu ôn hòa. Hồ Lớn (hồ Victoria) là hồ nước hình thành từ lưu vực trũng, cũng là đầu nguồn của sông Nile. Nằm giữa dải đứt gãy Đông Phi, hiện tại Thuộc địa Đông Phi kiểm soát được bờ nam của vùng Hồ Lớn, phần còn lại vẫn thuộc về thổ dân.
Lĩnh vực khai thác đánh bắt nguyên thủy đầu tiên của Thuộc địa Đông Phi cũng bắt đầu từ nơi đây, chủ yếu là những chiếc xuồng độc mộc đơn sơ, dùng để đánh bắt cá ngọt trong Hồ Lớn (hồ Victoria) làm thực phẩm bổ sung đạm.
Hiện nay, Hồ Lớn (hồ Victoria) chưa bị phá vỡ đa dạng sinh học do việc đưa vào nuôi cá vược sông Nile như hậu thế.
Do đó, cá nước ngọt đặc trưng trong hồ vẫn phong phú, và với nguồn nước chưa bị ô nhiễm, việc tiêu thụ cũng rất yên tâm.
Vùng Hồ Lớn là khu vực tương đối ẩm ướt và mưa nhiều ở châu Phi, diện tích rộng lớn của nó đã trực tiếp thay đổi môi trường khí hậu tại địa phương.
Tại khu vực hạ Sahara, “ẩm ướt” chưa chắc đã là một từ mang nghĩa tốt; ví dụ như Nigeria và Congo trong hậu thế là ổ bệnh nhiệt đới.
Ở Đông Phi, côn trùng, đặc biệt là muỗi, cũng rất khó đối phó, do đường xích đạo chạy xuyên qua trung tâm châu Phi. Hầu hết các khu vực ở châu Phi có nhiệt độ duy trì trên 20 oC quanh năm, là môi trường lý tưởng để muỗi sinh sôi.
Còn bệnh sốt rét, sốt xuất huyết và hàng loạt bệnh truyền nhiễm khác đều lây truyền qua trung gian muỗi.
Hậu thế, Đông Phi là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của bệnh sốt rét và các dịch bệnh khác, ngoài lý do y tế lạc hậu, vấn đề lớn nhất vẫn là muỗi sinh sôi vô độ.
Trong kiếp trước, Ernst từng làm việc tại Tanzania. Dù đã áp dụng các biện pháp phòng hộ tốt, nhưng muỗi ở châu Phi vẫn quá nhiều, đến mức Ernst đã hai lần nhiễm sốt rét.
Đó là vào thế kỷ XXI, một người hiện đại như Ernst dù có màn chống muỗi và nhang muỗi hỗ trợ vẫn bị nhiễm bệnh, có thể hình dung được mức độ khủng khiếp của châu Phi trong thời kỳ hiện tại đối với người châu Âu.
Cho đến hiện tại, các nước châu Âu tại châu Phi chủ yếu chiếm cứ những vùng đồng bằng ven biển hẹp, không dám tiến sâu vào nội địa.
Ở châu Phi, nước chiếm diện tích đất lớn nhất là Đế quốc Ottoman, chủ yếu tại Bắc Phi và khu vực Ethiopia. Tiếp theo là người Bồ Đào Nha, với các thuộc địa Angola và Mozambique; thứ ba là Pháp, tập trung ở một phần nhỏ Bắc Phi và Tây Phi; cuối cùng là người Anh với thuộc địa Cape. Các nước khác như Tây Ban Nha và Hà Lan gần như không đáng kể.
Do đó, Thuộc địa Đông Phi của Ernst đã trở thành ngoại lệ—tiên phong tiến sâu vào cao nguyên nội địa châu Phi.
So sánh với Bồ Đào Nha, họ cũng có thuộc địa khá lớn ở Châu Phi, nhưng cách quản lý rất thô sơ, dùng phương pháp “lấy thổ dân trị thổ dân”, xúi giục mâu thuẫn khắp nơi để ngư ông đắc lợi. Đông Phi được Ernst quản lý bài bản hơn. Dù vẫn khai thác tài nguyên và gạt thổ dân sang một bên, mục tiêu của hắn là xây dựng một điểm định cư lâu dài, không phải vắt kiệt rồi bỏ đi.
Mặc dù Thuộc địa Đông Phi cũng nằm trong thế giới “quạ đen con nào cũng giống nhau”, nhưng Ernst thực sự coi đây là nhà của mình mà điều hành, dù có hy sinh lợi ích của thổ dân, nhưng lại tạo thuận lợi cho di dân trong tương lai – chuẩn bị cư trú lâu dài tại đây.
So sánh giữa thuộc địa Bồ Đào Nha và Thuộc địa Đông Phi, nói là “ tát cạn ao bắt cá” cũng không quá. Chỉ vì hoàn cảnh hiện tại cho phép, nên Bồ Đào Nha mới có thể tiêu dao như vậy; đến khi sau Thế chiến II, dưới sự xúi giục của Mỹ và Liên Xô, các nước châu Phi sẽ đuổi thẳng người Bồ ra khỏi cửa.
Tất nhiên, đó là lịch sử của kiếp trước; biết đâu thế giới này sẽ bị Thuộc địa Đông Phi thôn tính. Dù sao thì Ernst cũng không đời nào bỏ qua Mozambique – “bên gối của ta, sao để kẻ khác ngáy ngủ?”
Người Bồ vốn có tiền sử – năm xưa họ đã từng dòm ngó Vương quốc Hồi giáo Zanzibar và bị đánh cho một trận tơi bời.
Tại khu vực Zimbabwe và Zambia, những năm trước, người Bồ cũng đã từng tiến vào, nhưng sau đó phải rút lui do dịch bệnh bùng phát trong cộng đồng thổ dân.
Vì thế, một ngày nào đó, người Bồ Đào Nha tham lam chắc chắn sẽ ra tay với Thuộc địa Đông Phi, Ernst phải luôn đề cao cảnh giác. Nếu Thuộc địa Đông Phi phát triển thuận lợi, đến lúc đó sẽ đến lượt Bồ Đào Nha phải lo cho thuộc địa của mình.
Nhiệt độ trung bình tại Đông Phi quanh năm luôn trên 20 oC, khiến muỗi sinh sản vô tội vạ, nhiều loại virus cũng rất hoạt động.
Hiện tại, dịch bệnh là mối đe dọa lớn nhất đến sự sống còn của người di cư, nên việc cải thiện vệ sinh tại Thuộc địa Đông Phi luôn là nhiệm vụ trọng yếu.
Trong đó bao gồm quản lý nghiêm ngặt nguồn nước gần nơi cư trú, tuyệt đối nghiêm cấm hành vi gây ô nhiễm nguồn nước.
Dọn sạch các khu vực thích hợp cho muỗi sinh sản như bụi rậm, vũng nước bằng cách đốt cháy hoặc lấp đất.
Tại các vùng nước lớn, thả những loài cá ăn ấu trùng muỗi để kiểm soát quần thể chúng.
Tại Thuộc địa Đông Phi, bệnh sốt rét và các dịch bệnh khác giống như xổ số, rút trúng ai thì người đó xui xẻo. May mắn là vào thời kỳ này đã có sự xuất hiện của quinine.
Ernst còn đặc biệt đưa giống cây canh ki na từ Nam Mỹ về trồng tại những khu vực thích hợp ở Đông Phi, đồng thời khai thác các loại thảo dược khác.
Hiện nay, tân dược vẫn còn mang tính “huyền học”, chưa hoàn toàn trưởng thành, phương pháp điều trị phổ biến nhất của các bác sĩ đương thời vẫn là “tháo huyết”. Riêng năm 1833, Pháp vẫn còn nhập khẩu hơn 40 triệu con đỉa.
May mắn thay, ngày càng có nhiều học giả bắt đầu chất vấn và phản đối lý luận y học cổ truyền phương Tây, Ernst đang sống trong thời đại chuyển giao từ y học cổ điển sang y học hiện đại.
Thế kỷ XIX là thời kỳ bùng nổ của tân dược: năm 1816 Merck (Mỹ), 1849 Pfizer (Mỹ), 1859 Novartis (Thụy Sĩ), 1863 Bayer (Đức), 1873 Glaxo (Anh), 1875 SmithKline (Anh), 1888 Abbott (Mỹ), 1896 Roche (Thụy Sĩ) lần lượt được thành lập, mở ra kỷ nguyên y học hiện đại.
Không thể phủ nhận rằng trong các phòng thí nghiệm y học tại châu Âu và Mỹ hiện nay, có thể đang nảy sinh những kết tinh trí tuệ y học sẽ hoàn toàn thay thế vị trí của y học cổ truyền trong vài thập kỷ tới.
Tuy nhiên, quá trình đó là lâu dài, phải kéo dài đến thế kỷ XX mới có thể hoàn tất nền móng của y học hiện đại.
Dù y học tiên tiến phát triển nhanh chóng, nhưng trong giai đoạn hiện tại, nền y học lâm sàng chủ lưu vẫn nằm trong tay những “lão Tây y” cổ truyền.
Những “lão Tây y” chưa bị đào thải này vẫn còn hiểu biết về bệnh tật, vi khuẩn và virus ở trình độ của thế kỷ trước, thực hiện phẫu thuật không gây mê, không có khái niệm cầm máu hay khử trùng. Vì vậy, tai nạn y tế nghiêm trọng thường xuyên xảy ra.
Ernst không dám đánh cược với họ, nên vẫn tin dùng các phương thuốc có kinh nghiệm lâu năm và ít tác dụng phụ.
Ngoài việc thu thập một số dược liệu địa phương từ thổ dân bản xứ, còn tìm kiếm các loại thuốc đã được kiểm chứng từ cả y học Trung Hoa và phương Tây.
Ví dụ như canh ki na, thanh hao – đều là các vị thuốc hiệu quả chống sốt rét. Ernst không phải là sinh viên y khoa, không hiểu rõ quy trình chế biến các dược liệu này,
nhưng có thuốc trong tay vẫn tốt hơn là không có. Nếu người di cư trong thuộc địa chẳng may mắc sốt rét,
thì chỉ có thể dùng hai loại thuốc này sắc nước uống. Không phải vì không muốn dùng dạng chiết xuất, mà là vì chi phí quá cao. Thuộc địa rộng lớn, dân số không ít, các khoản chi tiêu rất lớn, trong khi trồng dược liệu gần như không có chi phí thêm ngoài nhân lực.
Đất đai có sẵn, miễn là môi trường phù hợp thì muốn trồng bao nhiêu cũng được. Ngược lại, đặt mua thuốc từ châu Âu thì giá rất đắt.
Hiện nay, biện pháp phòng chống bệnh truyền nhiễm hiệu quả nhất tại Thuộc địa Đông Phi vẫn là cách ly: một khi phát hiện có vấn đề, lập tức tách biệt cá nhân đó.
Nếu hệ miễn dịch đủ mạnh thì sống sót, nếu không thì chỉ còn con đường đau đớn ra đi.
Ernst dĩ nhiên cũng đã nhập một số lượng thuốc nhất định, nhưng do vấn đề giao thông, phần lớn số thuốc vẫn nằm tại vùng Thượng Duyên Hải – nơi gần cảng biển nhất.
Nội địa vẫn còn chậm trễ trong tiếp tế vật tư và thuốc men, vì vậy các cứ điểm thuộc địa nội địa phải chủ động hơn nhiều so với ven biển.
Tổ chức người di cư thực hiện các chiến dịch vệ sinh công cộng, quy hoạch tập trung việc xử lý rác và chất thải, tiêu diệt nơi sinh sản của muỗi, trồng cây xua đuổi côn trùng (Đông Phi là vùng sản xuất cúc trừ sâu)...
Tối đa hóa việc ngăn chặn lây lan bệnh truyền nhiễm. Trong bối cảnh thời đại hiện tại, ý thức vệ sinh của di dân tại Thuộc địa Đông Phi có thể nói là dẫn đầu thế giới.
Họ có thể chưa hiểu “vệ sinh” là gì, nhưng họ biết rằng cấp trên yêu cầu họ không được vứt rác bừa bãi, không ăn uống lung tung, không đi vệ sinh bừa bãi...
Tất cả đều là mệnh lệnh bắt buộc từ ban quản lý thuộc địa – người vi phạm sẽ bị xử phạt nghiêm khắc.
Thực tế, ban quản lý thuộc địa cũng chưa có nhiều khái niệm về vệ sinh, nhưng Ernst đã áp đặt triệt để yêu cầu của mình, và còn trịnh trọng tuyên bố với ban quản lý rằng: tất cả những điều này đều là kết luận của các chuyên gia châu Âu.
Bất kể quan chức thuộc địa có tin hay không, sau khi làm theo lời Ernst, dịch bệnh tại Thuộc địa Đông Phi quả thực đã được kiểm soát ở mức thấp.
So với các thuộc địa của các quốc gia khác, hiệu quả phòng dịch rất rõ rệt – thậm chí còn tốt hơn cả một số khu vực phát triển và các quốc gia khác, chẳng hạn như Mozambique láng giềng hoặc Ấn Độ ở Nam Á.
(Hết chương)
Chú thích:
[1] Quinine: Hợp chất chiết xuất từ vỏ cây canh ki na (Cinchona), là thuốc điều trị sốt rét hiệu quả trong thế kỷ XIX. Hà Lan và Anh từng trồng nhiều canh ki na tại Đông Ấn.
[2] Thanh hao: Dược liệu cổ truyền Trung Hoa có hoạt tính chống sốt rét (artemisinin được chiết xuất từ loại cây này vào thế kỷ XX).
[3] Cúc trừ sâu: Tên gọi thực vật có chứa pyrethrin, chất tự nhiên chống côn trùng, đặc biệt hiệu quả với muỗi.
.
Bình luận truyện