Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục

Chương 37 : Chiến tranh

Người đăng: hauviet

Ngày đăng: 17:53 19-07-2025

.
Chương 37: Chiến tranh Ngày 14 tháng 6 năm 1866. Phổ lấy lý do Áo quản lý Holstein yếu kém để tuyên chiến. Ngay trong ngày tuyên chiến, quân Phổ ở mặt trận phía Tây đã đánh úp các quốc gia Bắc Đức với tốc độ chớp nhoáng, nhanh chóng tiếp quản bộ máy chính quyền và các đầu mối đường sắt của những nước này. Do uy thế và chính sách hôn nhân lâu năm của gia tộc Habsburg (Áo), chỉ có một vài tiểu quốc Đức gần như không có thực lực quân sự ủng hộ Phổ, trong khi những quốc gia có quy mô lớn hơn đều đứng về phe Áo. Trong kỳ họp trước của Quốc hội Liên bang Đức, phương án dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nước Đức do Phổ đưa ra đã bị phần lớn các quốc gia bác bỏ. Kỳ họp lần đó khiến Phổ nhận ra rằng họ gần như không có đồng minh tại khu vực Đức, do đó sau khi phát động chiến tranh, Phổ lập tức tuyên chiến với các tiểu quốc miền Bắc Đức. Lúc này, lãnh thổ Phổ trên bản đồ bị chia làm hai phần, và ở giữa chính là những tiểu quốc nước Đức rải rác đó. Phần lớn các tiểu quốc này bị Phổ bao vây, vậy mà còn dám đứng về phía Áo – quân đội Phổ vốn không trọng lễ nghĩa, đương nhiên sẽ không đàm phán với các tiểu quốc này mà trực tiếp phát động chiến tranh để tiếp quản chính quyền của họ. Quyết tâm thống nhất toàn bộ miền Bắc nước Đức, hoàn thành kế hoạch Tiểu Đức của Phổ trong lần này là chưa từng có tiền lệ, những tiểu quốc kia nếu không biết điều, thì chỉ còn con đường bị tiêu diệt. Mấy nước ở phía Nam có chút thực lực chống lại Phổ thì còn hiểu được, chứ mấy tiểu quốc và thành phố tự do này, gần như không có lực lượng quân sự, lại còn nằm sâu trong nội địa Phổ, vậy mà còn dám kêu gào om sòm. Khi quân Phổ ở mặt trận phía Tây thông qua đường sắt tiến vào các quốc gia Bắc Đức, những tiểu quốc này đương nhiên không thể ngăn cản. Phổ nhanh chóng nắm quyền kiểm soát cơ quan hành chính của họ. Trước hết phải loại bỏ những tiểu quốc không biết điều này để ngăn họ đâm sau lưng, đồng thời đảm bảo an toàn tuyệt đối cho mạng lưới đường sắt Đông – Tây của Phổ. Mặt trận Bohemia – Chiến trường chính của cuộc chiến Phổ-Áo Hàng trăm ngàn quân hai bên tập trung tại Bohemia, nhưng hiệu suất của Phổ rõ ràng cao hơn Áo. Một nguyên nhân là từ năm 1862, Von Roon của Phổ đã tiến hành một loạt cải cách quân sự, quy định mọi công dân Phổ đều có nghĩa vụ nhập ngũ. Trước đó, quy mô quân đội được xác định từ khá sớm, không tính đến sự gia tăng dân số, khiến cho chế độ tuyển quân trở nên không công bằng và bị phản đối. Mặc dù một số người Phổ vẫn phục vụ trong quân đội hoặc lực lượng dự bị cho đến năm 40 tuổi, nhưng khoảng một phần ba dân số (ở một số khu vực có dân số tăng mạnh do công nghiệp hóa thì còn nhiều hơn) chỉ được phân cho các nhiệm vụ tối thiểu trong quân đội tại quê nhà. Việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự phổ biến trong ba năm đã làm tăng quy mô quân thường trực, đồng thời cung cấp cho Phổ một lực lượng dự bị ngang ngửa – thậm chí vượt trội – so với Áo. Phổ cũng cân nhắc đến trường hợp nếu Pháp dưới sự cai trị của Napoleon III can thiệp vào hành động của họ, thì họ cũng có thể thông qua hệ thống lực lượng dự bị để huy động quân đội tương đương hoặc đông hơn nhằm đối phó với quân Pháp. Nghĩa vụ quân sự ở Phổ là một quá trình huấn luyện và thao diễn liên tục, trong khi một số chỉ huy quân đội Áo thì sau khi lính bộ binh nhập ngũ không bao lâu đã cho phép họ nghỉ phép dài hạn và trở về nhà, chỉ giữ lại một nhóm binh sĩ lâu năm ở doanh trại hoặc để thi hành nhiệm vụ. Do đó, khi chiến tranh nổ ra, các binh sĩ nhập ngũ của Áo được triệu hồi trở lại đơn vị thì gần như phải bắt đầu huấn luyện lại từ đầu. Vì vậy, quân đội Phổ có kỷ luật nghiêm ngặt, huấn luyện bài bản hơn quân đội Áo, đặc biệt là trong binh chủng bộ binh. Mặc dù kỵ binh và pháo binh Áo được huấn luyện không kém gì quân Phổ, Áo còn có hai sư đoàn kỵ binh hạng nặng tinh nhuệ, nhưng từ sau các cuộc chiến tranh của Napoleon, vũ khí và chiến thuật đã phát triển, việc xung phong bằng kỵ binh đã trở nên lỗi thời. Quân đội Phổ được tổ chức theo từng quân khu, lấy địa phương làm căn cứ, mỗi quân khu đều bao gồm một sở chỉ huy quân đoàn và các đơn vị trực thuộc. Phần lớn lực lượng dự bị cư trú gần kho quân dụng của họ, có thể nhanh chóng được huy động. Trong khi đó, chính sách của Áo là đóng quân ở nơi xa quê nhà nhằm ngăn binh lính tham gia các cuộc nổi dậy ly khai. Do vậy, các quân nhân nghỉ phép hoặc lực lượng dự bị bị triệu hồi trong thời gian động viên có thể mất vài tuần mới về tới đơn vị, điều này khiến tốc độ huy động của quân Áo chậm hơn đáng kể so với Phổ. Đồng thời, hệ thống đường sắt của Phổ cũng phát triển hơn nhiều so với mạng lưới đường sắt trong lãnh thổ Áo. Đường sắt không chỉ cho phép vận chuyển một lượng lớn quân tiếp viện mà còn cho phép quân đội cơ động nhanh chóng trong lãnh thổ thân thiện. Mạng lưới đường sắt hiệu quả hơn đã giúp quân đội Phổ tập kết nhanh hơn so với người Áo. Molkte trong khi hồi tưởng lại kế hoạch ông đề xuất với Roon đã nói: "Chúng ta có một ưu thế to lớn, có thể đưa 285.000 quân dã chiến của mình hành quân trên năm tuyến đường sắt, và có thể tập trung hoàn tất chỉ trong 25 ngày… Trong khi đó, Áo chỉ có một tuyến đường sắt, tập kết 200.000 quân cần đến 45 ngày." Molkte cũng từng nói trước đó: "Không có điều gì được hoan nghênh hơn cuộc chiến mà hiện tại chúng ta phải có." Quân đội Áo dưới sự chỉ huy của Ludwig von Benedek ở Bohemia từng được xem là có ưu thế "vị trí trung tâm", vì họ có thể tập trung tiến công liên tiếp dọc theo khu vực biên giới. Tuy nhiên, khả năng tập kết nhanh hơn của quân đội Phổ đã làm mất đi ưu thế đó. Khi quân Áo còn chưa tập kết hoàn chỉnh, thì trong lúc họ dồn lực đối phó một cánh quân Phổ, hai cánh quân khác của Phổ đã đánh vào sườn và phía sau của họ, đe dọa đến tuyến tiếp vận. Ở phía Nam, sự hiện diện của người Ý buộc Áo phải phân tán binh lực để giao chiến với Vương quốc Ý, thậm chí Áo đã chủ động rút khỏi Venetia. Tình hình chiến tranh ngay từ đầu đã bất lợi cho Áo – một đế quốc già cỗi phải cầu viện Napoleon III, nhưng Napoleon III lại xem nhẹ Phổ, tuy đồng ý với yêu cầu của Áo nhưng vẫn chưa can thiệp ngay. Ngày 23 tháng 6, quân Phổ tiến đến tuyến tập kết từ Zawidów đến Žitava. Ngày 26 tháng 6, hai bên xảy ra trận chiến tại sông Jizera. Tổng Tham mưu trưởng của quân Phổ là Molkte đã lên kế hoạch chiến đấu tỉ mỉ, tập trung hỏa lực tấn công quân Áo. Khi quân Áo tập trung xâm nhập vào Silesia, ông đã điều quân đến Sachsen và Bohemia, hội sư với vua Phổ Wilhelm I, người đã tập kết đại quân từ trước tại đây. Ngày 3 tháng 7, quân Phổ phát động tổng tiến công, trong trận đánh tại Königgrätz (còn gọi là trận chiến Sadowa), đánh bại quân Áo. Quân Áo tuy có ưu thế về số lượng nhưng thương vong gấp bảy lần quân Phổ, nguyên nhân là do quân Phổ được trang bị tốt và chiến lược ưu việt. Ngoài Sachsen, các bang khác hầu như không ảnh hưởng nhiều đến cục diện chiến tranh. Quân đội Hannover đã từng đánh bại quân Phổ trong trận Bad Langensalza ngày 27 tháng 6, nhưng không lâu sau đó bị vây hãm bởi đại quân và phải đầu hàng. Quân Phổ giao chiến trực diện với Bayern bên bờ sông Main, diễn ra tại Nürnberg và Frankfurt. Thành phố Würzburg ở bang Bayern bị quân Phổ vây hãm, nhưng đến khi đình chiến vẫn chưa đầu hàng. Ở mặt trận chống Ý, Áo lại giành được chiến thắng bất ngờ, khi trong trận Custoza ngày 24 tháng 6 và trận hải chiến Lissa ngày 20 tháng 7 (Lissa là đảo Vis ngày nay thuộc Croatia), họ đều đánh bại quân Ý. (Hết chương) Chú thích: [1] Holstein: Lãnh thổ tranh chấp giữa Phổ và Áo thời kỳ hậu chiến tranh Đan Mạch – Đức . [2] Bohemia: Khu vực lịch sử thuộc Cộng hòa Séc ngày nay, là chiến trường chủ yếu trong chiến tranh Phổ – Áo. [3] Königgrätz (Sadowa): Tên gọi khác của trận đại chiến mang tính quyết định trong cuộc chiến giữa Phổ và Áo.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
.
 
Trở lên đầu trang