Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục
Chương 170 : Tình hình phát triển năm 1868
Người đăng: hauviet
Ngày đăng: 22:58 03-08-2025
.
Chương 170: Tình hình phát triển năm 1868
Ngày 28 tháng 12 năm 1868.
Số liệu thống kê năm nay của Đông Phi cuối cùng cũng đã được tổng hợp xong. Do sự gia tăng của các chỉ số như dân số, diện tích, ngành nghề,... quá trình thống kê năm nay chậm hơn đáng kể so với hai năm trước.
Trước đây, dân số nhập cư có thể tính toán tương đối dễ dàng thông qua hồ sơ ở các cảng, vì mọi người nhập cư đều được ghi danh ngay khi đặt chân đến.
Nhưng năm nay, cách làm đó không còn hiệu quả nữa do số trẻ sơ sinh bùng nổ – tất cả đều phải được từng địa phương báo cáo lên và kiểm tra xác minh bởi nhân viên phụ trách.
Tính đến cuối tháng 11 năm 1868, tổng dân số Đông Phi đã vượt quá 1,75 triệu người, tiệm cận mốc 2 triệu.
Mức tăng trưởng dân số trong chưa đầy ba năm là rất phi thường, nhưng Đông Phi thực sự đã làm được. Dù sao thì vào thời điểm này, không có nơi nào khác trên thế giới tốn công, tốn của và tốn sức thu hút nhập cư như Đông Phi.
Toàn bộ quá trình đưa người nhập cư đến Đông Phi gần như do Tập đoàn Hechingen chi trả trọn gói – bao gồm cả chi phí vận chuyển và ăn uống.
Con số 1,75 triệu người bao gồm toàn bộ người nhập cư và trẻ em mới sinh ở Đông Phi, không bao gồm người bản địa. Dân số bản địa ước tính khoảng 1,3–1,5 triệu người. Khi có nhiều công trình xây dựng, nhu cầu lao động tăng cao thì Đông Phi tăng cường bắt người ở vùng phía tây. Khi nhu cầu giảm, số lượng nô lệ cũng giảm dần – hàng ngày đều có một nhóm nô lệ bị đưa đi qua cảng Dar es Salaam.
Tỷ lệ nô lệ tại đây gần như 1:1 so với dân số nhập cư, điều mà thậm chí miền Nam Hoa Kỳ trước đây cũng chưa từng đạt được. Vì vậy, việc lo lắng Đông Phi thiếu hụt lao động là điều nực cười – chính quyền Đông Phi đâu phải ngốc.
Dù vậy, Ernst vẫn tương đối tiết chế. Mục đích đưa người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới đến không phải để “nuôi báo cô”, mà để tăng cường sức mạnh cho Đông Phi. Vì thế, chính quyền vẫn cố gắng khai thác tối đa giá trị của người nhập cư thay vì để nô lệ làm hết mọi việc.
Trong suốt năm 1868, việc mở rộng lãnh thổ không mấy đáng kể – chủ yếu vì đối thủ yếu, còn vùng phía tây bắc thì diện tích không lớn. Phía bắc Kenya dù cũng được khai thác trong năm nay, nhưng dễ chinh phục hơn nhiều.
Bởi vì khu vực này từng nằm dưới ảnh hưởng của Vương quốc Zanzibar. Dù không có quyền kiểm soát thực sự, nhưng các bộ lạc địa phương cũng từng nhiều lần bị lực lượng từ Zanzibar “đánh nhừ tử”.
Ngay cả Sultanate Geledi ở khu vực Somalia, thời thuộc về Đế quốc Oman cũng chỉ là một “đàn em nhỏ”. Mới chỉ hơn chục năm trước, nó mới thoát khỏi sự kiểm soát của Oman.
Nếu theo dòng lịch sử bình thường, chỉ vài năm nữa thôi, Zanzibar (vốn tách ra từ Đế quốc Oman – vốn gồm Muscat và Zanzibar) sẽ sáp nhập lại Sultanate Geledi.
Sự xuất hiện của Đông Phi đã tạm thời cứu Geledi khỏi nguy cơ đó, tránh được việc bị nuốt chửng.
Ở phía bắc Đông Phi, ngoài Sultanate Geledi còn có một thế lực truyền thống – Đế quốc Ethiopia (Abyssinia). Nhưng trong năm nay, Abyssinia bị quân Anh đánh bại, hoàng đế thậm chí còn tự sát. Vì vậy, thế lực này cũng không thể duy trì uy danh.
Nhờ vậy, việc khai thác phía bắc Kenya diễn ra rất suôn sẻ, hơn nữa khu vực này lại thưa dân nên càng thuận tiện cho công cuộc thuộc địa hóa.
Vùng phía tây bắc và phía bắc Kenya nâng tổng diện tích thuộc địa Đông Phi lên hơn 2 triệu km² (không bao gồm diện tích mặt nước như hồ Victoria).
Công nghiệp
Về công nghiệp, Đông Phi vẫn gần như không đáng kể. Ngay cả mấy chục xưởng và nhà máy ở đây, đặt trong một quốc gia phong kiến cũng chẳng là gì – càng không thể so với châu Âu.
Lấy Phổ của 20 năm trước làm ví dụ: có tới 78.000 nhà máy/xưởng, với 550.000 công nhân. Ngày nay, Phổ lại còn hợp nhất cả Liên bang Bắc Đức thì mức độ phát triển là không tưởng.
Do vậy, nông nghiệp vẫn là trụ cột ổn định trong cơ cấu sản xuất của Đông Phi.
Tính đến ngày 26 tháng 11 năm 1868, Đông Phi có 20,4 triệu mẫu đất canh tác, bình quân đầu người khoảng 12,75 mẫu (không tính nô lệ và người nhập cư mới đến).
Lúa nước: Diện tích tăng nhẹ, tổng cộng 1,1 triệu mẫu, chủ yếu tại phía đông Kenya và quanh hồ Victoria, ước sản lượng 220 triệu cân.
Lúa mì: Khoảng 6,6 triệu mẫu (tương đương 440.000 ha), tăng hơn 4 lần, sản lượng khoảng 1 triệu tấn.
Ngô: Tăng vọt, là khẩu phần chính cho nô lệ và gia súc, diện tích trồng hơn 5 triệu mẫu (~ 300.000 ha).
Kê và cao lương: khoảng 2 triệu mẫu.
Cao lương là loài cây bản địa châu Phi, dễ trồng, chủ yếu bổ sung cho ngô.
Ngô, kê và cao lương dễ trồng hơn lúa nước và lúa mì, nhất là cao lương – chỉ cần rải giống lên đất là gần như xong.
Các cây lương thực chính:
Lúa nước, lúa mì và kê: khẩu phần chính của người Đông Phi.
Ngô và cao lương: dùng cho nô lệ và gia súc.
Phần đất còn lại được dùng để trồng cây kinh tế.
Các cây trồng kinh tế:
Sisal (cây thùa) vẫn là cây trồng số 1.
Đậu tương: đứng thứ hai, đang dần vượt sisal vì có thể dùng luân canh, trộn với lúa mì.
Cà phê: diện tích lớn, nhưng chưa đến kỳ thu hoạch.
Các cây khác: lạc, mè, cao su, đinh hương, bông, trà…
Đáng chú ý, nhiều cây trồng tập trung ở khu vực hồ lớn, ví dụ cao su chủ yếu trồng quanh bờ hồ và sông ngòi vùng đó.
Tanzania, với khí hậu nhiệt đới, rất phù hợp để trồng cao su – miễn là đủ nước. Trên thực tế, Đông Phi không thiếu nước, nhưng so với rừng mưa nhiệt đới thì lượng mưa vẫn kém.
Trước kia, châu Phi là khu vực sản xuất cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Á. Tanzania từng nằm trong top 10 châu Phi về quy mô trồng cao su.
Tuy nhiên, do chính quyền Tanzania lơ là việc phát triển cao su, kỹ thuật trồng lạc hậu, người dân cũng không mặn mà với loại cây này nên chi phí sản xuất cao su ở Đông Phi cao hơn nhiều so với Đông Nam Á. Thậm chí còn phải nhập khẩu. Thực tế thì Tanzania hoàn toàn có thể tự cung tự cấp.
(*Theo báo cáo 1978-1991 của General Tyre East Africa*).
Vấn đề lớn nhất hạn chế nông nghiệp Đông Phi là phân bố lượng mưa không đều. Ví dụ, ở các vùng trồng lúa mì, nguồn nước được ưu tiên cho cây lương thực. Ở vùng khô hạn phía bắc thì kê, cao lương trồng rộng khắp.
Nhiều cây trồng kinh tế cần nước nhiều trong thời kỳ sinh trưởng – các vùng như hồ lớn và đồng bằng ven biển là nơi có mưa nhiều nhất.
Đặc biệt là khu đất mới chiếm tại núi Mitumba, nằm sát lưu vực Congo, lượng mưa dồi dào.
Tất nhiên, một số cây như bông và mè lại thích hợp trồng ở đất khô, không cần nhiều nước.
Về công cụ và kỹ thuật
Để khai thác được khối lượng đất lớn như vậy, Đông Phi phụ thuộc vào nô lệ và công cụ sắt. Dù chưa thể cơ giới hóa như châu Âu, nhưng vẫn vượt trội so với các khu vực chậm phát triển khác.
Việc nhập khẩu nông cụ sắt từ châu Âu là khoản chi tiêu lớn nhất. Vì ưu tiên nông cụ, nhiều gia đình ở Đông Phi không có nổi một chiếc nồi gang, chủ yếu dùng đồ đất nung hoặc lò đất. Đồ ăn uống thì toàn bằng gỗ.
Sản lượng quặng sắt trong Đông Phi cực kỳ thấp, chỉ khai thác kèm với khai thác than. Hiện tại, Đông Phi chưa có một nhà máy luyện thép hiện đại nào, chỉ có vài lò nung truyền thống của Zanzibar và một số xưởng rèn nhỏ.
Không phải Đông Phi không muốn xây nhà máy luyện thép, mà vì khó vận chuyển máy móc. Thời này, ngành luyện thép là ngành “vũ khí chiến lược”, quyết định sức mạnh quốc gia.
Việc nhập khẩu thiết bị rất tốn kém, mà hạ tầng giao thông Đông Phi vẫn còn ở mức xe bò, xe tay kéo.
Mỏ than và sắt lại nằm trong nội địa, còn nhà máy luyện thép thời này thường đặt gần mỏ – ví dụ như vùng Ruhr của Đức.
Không giống hiện đại, khi các nước như Trung Quốc có thể xây nhà máy lớn ven biển rồi nhập nguyên liệu, thời nay vẫn phải lấy tài nguyên làm trung tâm.
Vì vậy, Ernst đến nay vẫn chưa xây nhà máy thép nào. Than từ nô lệ khai thác được chỉ đủ cấp cho vài xưởng chạy hơi nước. Cần bao nhiêu than cũng có thể dùng xe đẩy tay chở được – chưa kể là còn có xe ngựa.
Đông Phi chỉ vượt trội so với các nước chậm phát triển khác ở chỗ có vài nhà máy dùng động cơ hơi nước ven biển – bao gồm cả máy bơm của mỏ than Mwanza.
Ngoài một số nhà máy sơ chế nông sản như sisal, thuốc lá, xay bột, phần lớn các xưởng đều là công xưởng thủ công. Ví dụ xưởng đóng tàu Mwanza, chỉ có động cơ là nhập từ Đức, còn lại đều làm tay.
Nói cách khác, Đông Phi phát triển thủ công nghiệp đến đâu, là do Zanzibar phát triển đến đâu. Rất tiếc là Zanzibar chỉ tập trung phát triển đảo, nên sản nghiệp ven biển không đáng kể.
Ernst không đánh chiếm đảo Zanzibar, phần là để “chừa đường sống” cho Vương quốc này, phần vì Zanzibar có quan hệ mật thiết với Anh, vốn từng được Anh hậu thuẫn cạnh tranh với Bồ Đào Nha thời Đế quốc Oman.
Quân giới
Ngoài ra, Đông Phi còn có một xưởng công binh, xem như ngành công nghiệp tiên tiến nhất – nhưng chỉ dùng để sửa súng hỏng và chế thuốc nổ thô, đúc đạn dược.
Tổng kết
So với công nghiệp, nông nghiệp Đông Phi vượt trội hơn hẳn – vừa đủ nhu cầu nội địa, vừa có thể xuất khẩu.
Nhưng thành tựu này không đến từ năng suất cao, mà từ diện tích đất rộng, dân số ít và chế độ nô lệ phát triển.
Sản lượng của Đông Phi chỉ ở mức trung bình khá, nhưng nhờ ứng dụng tổng hợp các yếu tố như: cối xay gió, nông cụ cải tiến, phân bón hóa học, kỹ thuật gieo trồng,... mà trong số các nước kém phát triển, Đông Phi nổi bật lên hẳn.
(Hết chương)
Chú thích:
[1] General Tyre East Africa: Công ty lốp xe Mỹ từng đầu tư đồn điền cao su tại Tanzania thập niên 1970, sau này phải đóng cửa do chi phí sản xuất cao.
[2] Luân canh đậu tương: Kỹ thuật trồng luân phiên giữa cây họ đậu (cố định đạm) và lúa mì để cải tạo đất.
.
Bình luận truyện