[Dịch]Nhi Nữ Hầu Môn - Sưu tầm

Chương 168 : Tê Hà tự dâng hương

Người đăng: 

.
Edit: Đường Linh Beta: Ánh Nguyệt Tuệ An trở lại Kỳ Phong viện lập tức tới thư phòng, Quan Nguyên Hạc thấy nàng đến vội đứng lên, nói: “Không phải nàng nói muốn xem bệnh cho mấy con ngựa bị gãy xương, đúng lúc vừa chuyển vào phủ xong, ở ngay chuồng ngựa phía sau, nàng có cần đi nhìn một chút không?” Tuệ An nghe vậy cười gật đầu, nói: “Chờ đã, để ta đi lấy rương thuốc.” Nàng nói xong liền chạy vào thư phòng, Quan Nguyên Hạc thấy nàng kích động thì hơi cong môi cười. Hai người tới chuồng ngựa, thấy phía trong đã có ba con ngựa gãy xương đang nằm đó, một con đang kịch liệt co giật. Tuệ An nhảy vào chuồng ngựa, ngồi xổm trước mặt con ngựa vì đau đớn mà ra đầy mồ hôi kia, thấy chân trước bên phải của nó sưng tấy lên, không cách nào co duỗi, liền biết nó bị nứt xương đã một ngày một đêm. Nàng lấy ra một bộ ngân châm từ trong hòm thuốc, đâm hai châm vào huyệt vị trên bụng ngựa, tức thì con ngựa kia liền yên lặng rất nhiều, chỉ nằm trên mặt đất thở phì phò không ngừng. Tuy Quan Nguyên Hạc vẫn biết Tuệ An rất có năng lực trong việc chữa trị cho ngựa, nhưng rốt cuộc đây cũng là lần đầu tiên y tận mắt chứng kiến nàng ra tay, thấy vậy bất giác nhướng mày, liền nhớ lại trước kia lần đầu tiên nàng tới Quan phủ, cũng là tại chuồng ngựa này, nàng và y đã cùng nhau đỡ đẻ cho Lưu Vân, nàng còn to gan cố ý vẩy y một thân dầu mỡ. Hai năm qua, Tuệ An của y đã tự tin ung dung hơn trước rất nhiều, cũng trổ mã càng thêm xinh đẹp, thứ duy nhất không thay đổi chính là vẻ thông minh linh động xen lẫn nghiêm túc và chuyên chú ẩn hiện nơi chân mày khóe mắt kia. Quan Nguyên Hạc thấy Tuệ An vô cùng nghiêm túc, liền ngồi xuống bên cạnh nàng, nghe Tuệ An nói: “Nơi này rất khó ngửi, chàng không cần phụng bồi ta đâu.” Quan Nguyên Hạc chỉ nhẹ giọng hừ một tiếng, lại không tránh ra, Tuệ An thấy vậy cũng không khuyên nhiều, chỉ hơi liếc Quan Nguyên Hạc, cười nói: “Vừa rồi châm vào hai huyệt đạo kia là để tạm dừng cơn đau, con ngựa này chỉ bị nứt xương, cũng không quá nghiêm trọng, mấy ngày trước chàng cho ta phương thuốc kia, ta có bỏ thêm hai vị thuốc, làm thành thuốc cao, hôm nay tiện thể cho nó thử trước, nhìn xem hiệu quả của thuốc này thế nào.” Tuệ An vừa nói vừa thoăn thoắt chuyển tay băng bó quanh chân phía trước bị sưng của con ngựa, đợi máu chậm rãi ngừng lại, mới lau chùi miệng vết thương, bôi thuốc mỡ lên, tiếp tục dùng vải sạch băng bó miệng vết thương, lại lấy một thanh trúc nhỏ cố định chỗ sưng. Lúc làm những việc này, mười ngón tay trắng trẻo thon dài của nàng không ngừng chuyển động, cực kỳ khéo léo, động tác như nước chảy mây trôi, trên ngón tay mảnh khảnh trắng thuần kia tràn đầy máu đen của ngựa, đối lập mãnh liệt với nhau, tôn lên một vẻ đẹp kinh người. Quan Nguyên Hạc nhìn không chớp mắt, đợi Tuệ An lại ở trên vết thương thắt một vòng vải xong, đứng dậy, y mới dời mắt. Bên kia Tuệ An đã phân phó Mã quan buộc đầu còn lại của mảnh vải vào khung gỗ nơi cửa chuồng, treo chân con ngựa lên, mới nói: “Cách một canh giờ thì xoa bóp đùi cho nó, ba ngày sau hãy tháo vải xuống, cho nó hoạt động cái chân bị tổn thương, bảy ngày sau ta lại đến xem.” Nàng nhìn hai con ngựa khác, thở dài một tiếng, chỉ vào con ngựa đen kia, nói với mã quan: “Con ngựa này xương đùi toàn bộ đã vỡ nát, không có cách nào chữa trị, mang ra phủ đi.” Mã quan đáp một tiếng, kêu hai gã sai vặt đặt con ngựa đen kia lên xe đẩy, con ngựa kia giống như có thể nghe hiểu tiếng người, hí vang một tiếng, lại còn dùng đôi nước mắt rưng rưng nước nhìn chằm chằm vào Tuệ An, ánh nhìn tràn đầy khẩn cầu cùng bi ai. Con ngựa này đã vĩnh viễn không có cách nào đứng thẳng, mang đi cũng chỉ có thể bị người làm thịt, mạng đều đã tận. Tuệ An nhìn đôi mắt kia của nó, trong lòng lại sinh ra cảm giác khó chịu, thở dài một cái, nói: “Nếu có thể tìm được biện pháp làm mới xương thì tốt biết bao, người xưa từng nói có thể dùng xương thay xương, ta cũng đã thử qua, nhưng vẫn không thể giác ngộ huyền cơ trong đó…” Quan Nguyên Hạc thấy nàng bởi vì một con ngựa mà khổ sở, không khỏi buồn cười, tiến lên nắm tay nàng, nói: “Ta lại không biết lòng thương xót của nàng lớn như thế đấy, vì một con ngựa, đáng sao? Nắng bắt đầu lên rồi, theo ta trở về đi.” Tuệ An nghe vậy thì liếc Quan Nguyên Hạc một cái, nói: “Người phế chân vẫn còn sống được, nhưng ngựa một khi gãy xương, mất chính là mạng của nó. Một năm không biết ở biên cương có bao nhiêu con ngựa bởi vì gãy xương mà mất mạng như vậy, chẳng lẽ không đáng thương sao?” Quan Nguyên Hạc thấy Tuệ An bĩu môi, vẻ mặt cãi chày cãi cối, trong lòng mặc dù cảm thấy buồn cười, nhưng ngẫm lại lời nàng nói quả thực cũng sinh lòng thổn thức. Y không cảm thấy con ngựa đáng thương, chỉ nghĩ mỗi năm biên cương bởi vậy giết vô số ngựa tốt, không chỉ lãng phí quân lực, tăng thêm gánh nặng cho triều đình, còn cần một nhóm người tay nghề đặc biệt đến xử lý ngựa chết. Huống chi chiến mã Đại Huy vốn khan hiếm, nuôi dưỡng một con ngựa cũng không dễ dàng, lại bị bỏ qua như thế, xác thực là chuyện cực kỳ lãng phí. Nghĩ như vậy, nét vui vẻ trên mặt y bỗng nhiên biến mất, nói: “Ta đã cho người đi tìm sách rồi, nàng chờ một chút đi.” Hai người trở lại phòng, tắm rửa sạch sẽ, sương phòng đã bày sẵn cơm, cùng nhau dùng cơm xong, Tuệ An tự về phòng nghỉ trưa, Quan Nguyên Hạc thì như cũ đi thư phòng. Đợi Tuệ An tỉnh dậy đã là buổi chiều, trên trời mây đen giăng lối, u u ám ám, dường như sắp mưa, nàng gọi Đông Nhi và Xuân Nhi cùng ra khỏi sân nhỏ, một đường đi về phía Mai viên. Khoảng cách giữa Kỳ Phong viện và Mai viên cũng không xa, Tuệ An vừa đi vừa ngắm cảnh, ngược lại khó được thanh nhàn. Đợi đi qua một cửa thùy hoa, nàng đột nhiên nghe thấy cách đó không xa truyền đến thanh âm nam nữ trêu chọc, sau đó chính là vài tiếng rên rỉ mập mờ, hình như là truyền ra hòn non bộ ven đường. Tuệ An nghe tiếng liền biến sắc, tiểu viện này bên trái là Khiết viện của Quan Lễ Khiết, bên phải nối thẳng đến Diêu viện của hai thứ nữ khác của Quan Bạch Trạch, ban ngày ban mặt nếu để các cô nương đụng phải chuyện như thế, thanh danh gì đó Quan phủ cũng đừng nghĩ nữa, còn nếu để khách khứa bắt gặp, nề nếp gia phong lại càng mất hết. Tuệ An chỉ cho là chúng người hầu yêu đương vụng trộm, lúc này liền nháy mắt ra hiệu cho Đông Nhi, Đông Nhi đang cất bước đi về phía hòn non bộ kia, bất ngờ từ sau núi giả có một tiểu nha hoàn vừa cười vừa chạy ra, xiêm y trên người nha hoàn kia nửa kín nửa hở, sắc mặt ửng đỏ, mắt hạnh má đào, như có như không toát ra phong tình. Nàng vừa cười vừa nghiêng đầu buộc lại tà áo, còn ra vẻ giận dỗi nói: “Đông Vân không thích như vậy đây, không phải Lục gia nói có chuyện tìm tỷ tỷ ngài sao, ngài đến nhầm chỗ rồi.” Lúc Đông Vân kia nói chuyện mặt mày ẩn hiện tình ý, nàng vừa quay đầu, nhìn thấy Tuệ An, nhất thời liền kinh hãi biến sắc, ‘phịch’ một tiếng quỳ xuống. Tuệ An nhìn nàng, sau đó phía sau hòn non bộ có một nam tử quần áo chỉnh tề bước ra, lại chỉ là một đứa bé trai chưa đủ lông đủ tóc, vẻ mặt hớn hở, luôn miệng hô ‘tỷ tỷ tốt’, đúng là Quan Nguyên Trác. Tuệ An lạnh lẽo liếc nhìn, thấy hắn môi hồng răng trắng, một thân trang phục đẹp đẽ quý giá, trên người còn có thể hiện ra vài phần thanh quý bẩm sinh, chỉ có điều khuôn mặt đầy vẻ lưu manh, khiến người ta sinh lòng chán ghét. Quan Nguyên Trác cũng không ngờ ở đây còn có người, chống lại ánh mắt của Tuệ An, hắn run rẩy một cái, nụ cười cứng ở trên mặt, một lát mới giật mình phục hồi tinh thần, lúng túng hành lễ với Tuệ An, cúi gằm mặt mà nói: “Chị dâu!” Tuệ An thấy bộ dáng khúm núm kia của hắn thì càng thêm chán ghét, lúc này nếu là hai hạ nhân hồ nháo, bị nàng đụng phải tất nhiên không thiếu được quản giáo một phen, nhưng đây lại là Quan Nguyên Trác, Tuệ An cũng chẳng thừa hơi dính đến loại chuyện này, biết đâu còn phát sinh sự cố với Thôi thị nữa. Lúc trước nàng cũng nghe bọn hạ nhân nói Quan Nguyên Trác suốt ngày dây dưa với bọn nha hoàn trong viện, nghĩ tới hắn mới mười ba, nề nếp gia phong của Quan phủ lại nghiêm khắc, hơn nữa gặp qua Quan Nguyên Trác hai lần, nàng cũng cảm thấy hắn là một đứa bé rụt rè biết lễ, chỉ cho đấy là lời đồn đại, ai ngờ thằng nhóc này còn nhỏ tuổi mà đã dám hồ nháo như thế rồi. Thôi thị nói thế nào cũng là đích nữ vọng tộc, sao kiến thức hạn hẹp thế không biết, cả ngày chỉ biết tranh giành quyền lợi với người khác, lại không biết cách quản thúc con trẻ, nuôi ra một đồ hỗn trướng bất tài như vậy, có ích lợi gì? Tuệ An nghĩ tới đây, bất giác cười mỉa mai, nàng thu hồi ánh mắt, cũng không nhìn hai người kia nữa, sải bước đi về phía trước. Đông Nhi và Xuân Nhi sửng sốt một chút, mới vội vã bước nhanh đuổi theo. Ba người lại đi qua một hành lang, Đông Nhi mới nói: “Đông Vân là nha hoàn tam đẳng trong phòng Lan di nương, nếu để phu nhân biết chuyện, nàng hẳn là sống không nổi nữa.” Xuân Nhi nói: “Nàng ta thì sợ cái gì, chỉ cần Lục thiếu gia làm ầm ĩ với phu nhân nháo một hồi, còn không phải chuyện gì đều theo ý hắn sao. Lục thiếu gia chính là điểm chí mạng của phu nhân, phu nhân thương hắn ghê lắm. Lục thiếu gia vừa thấy cô gia chúng ta thì giống như chuột thấy mèo, một tiếng cũng không dám nói, lại không ngờ đúng là loại người… như vậy” Mặt Xuân Nhi lộ vẻ khinh bỉ, nhưng rốt cuộc nhớ thân phận Quan Nguyên Trác nên cũng không mắng ra lời, Tuệ An nghe hai người nói chuyện, bất giác tâm tư khẽ động. Thôi thị tuy xuất thân danh môn, nhưng rốt cuộc chỉ là bàng chi, gia đình lại sa sút, chỉ sợ lúc ở trong phủ cũng chịu không ít khổ, thế nên kiến thức mới hạn hẹp như thế, chỉ biết nhìn chằm chằm vào tiền bạc trong nhà. Bà gả đến nhiều năm mới sinh được Quan Nguyên Trác, Quan phủ vốn không có nhiều con nối dòng, của cải cuối cùng không phải đều chia cho con cháu trong nhà cả sao. Đông Vân kia cũng không biết sao lại cấu kết được với Quan Nguyên Trác, nghe nói Lan di nương và Thôi thị không hợp nhau lắm kia mà! Lại nói tới Quan Bạch Trạch cũng không phải người tham luyến sắc đẹp, trong phủ chỉ có ba tiểu thiếp, còn đều có con cái bên người, mà tuổi tác các bà cũng không nhỏ. Dung di nương là con gái của của người hầu trong phủ, lúc mẹ đẻ Cố thị của Quan Nguyên Hạc có thai thì được thu làm thông phòng, bởi vì bà có Đại tiểu thư Quan Lễ Thư nên lại được nâng lên thành di nương. Đại tiểu thư đã sớm xuất giá, Dung di nương này cũng đã hơn bốn mươi, nay sủng ái chẳng được bao nhiêu. Mà Lan di nương cũng là do Cố thị nâng làm tiểu thiếp, nàng là lương thiếp từ ngoài vào phủ, sinh dưỡng Tứ thiếu gia Quan Thần Chi cùng Lục tiểu thư Quan Lễ Nhuế. Mặt khác còn có Thanh di nương, nay tuổi hơn hai mươi, là Thôi thị làm chủ nạp cho Quan Bạch Trạch, sinh dưỡng Thất tiểu thư Quan Lễ Nhược, hiện giờ đa số thời gian Quan Bạch Trạch đều ở chỗ Thanh di nương và Lan di nương. Thanh di nương thì cũng thôi đi, rốt cuộc cũng là người trẻ tuổi, nhưng Lan di nương kia bây giờ đã gần bốn mươi, một người đẹp hết thời như bà vẫn còn được cưng chiều, dĩ nhiên khiến mọi người trong phủ không thể không thay đổi cách nhìn. Hơn nữa bà cũng là thiếp thất duy nhất của Quan Bạch Trạch sinh hạ cả trai lẫn gái, nữ nhân này há lại đơn giản, chuyện nha đầu trong viện của bà dính dáng đến Quan Nguyên Trác, Thôi thị có thể không biết, nhưng Lan di nương thông minh như vậy thì sao? Chẳng qua có người tìm Thôi thị gây phiền toái, Tuệ An cũng vui vẻ đứng ngoài xem náo nhiệt, nhưng không hơi đâu bỏ đá xuống giếng gì đó cả. Trò khôi hài vừa rồi cũng không khiến cho Tuệ An mất hứng, đợi lúc nàng đến Mai viên đã vô thức ném chuyện kia ra sau đầu. Nàng vào viện, gặp Vân Di đang đứng dưới mái hiên nhìn bầu trời, bọn nha hoàn thì gấp rút chuyển mấy chậu hoa quý vào phòng. Vân Di không nghĩ Tuệ An lại tới đây, nàng bước nhanh tiến lên thi lễ, một mặt phân phó Bạch Dung đi pha trà, một mặt kéo tay Tuệ An, nói: “Sao lúc này chị dâu lại tới đây?” Tuệ An cười nói với Bạch Dung: “Không cần vội, ta nói vài lời lời rồi đi, mắt thấy trời cũng sắp mưa rồi.” Thấy Bạch Dung cười đứng lại, nàng mới nói với Vân Di: “Ta coi mấy hôm nay khí trời mát mẻ, muốn ra ngoài đi dạo một chút, định mời muội muội sáng mai theo giúp ta đi Tê Hà tự dâng hương, không biết muội muội có rảnh không?” Vân Di nghe vậy liền biết lần đi này là vì chuyện của Vân Tri, ánh mắt nàng sáng ngời, vội cười nói: “Ta ở trong phủ đã sớm buồn bực từ lâu, chị dâu nguyện ý mang Vân Di theo thật sự là quá tốt. Để ta đi kêu Thù mama chuẩn bị đồ, không biết chúng ta có nghỉ lại trên núi không?” Tuệ An cười nói: “Chỉ đi buổi sáng, chiều muộn liền về, không ở qua đêm trong chùa đâu.” Vân Di cười đáp ứng, Tuệ An cũng không ở lâu, xoay người lại dẫn hai người Đông Nhi ra khỏi Mai viên, Vân Di thấy mây đen trên trời như muốn ập xuống, vội gọi nha hoàn lấy ô đưa cho Đông Nhi mang theo, sau đó mới đè tâm tình kích động trở về trong phòng. Trong phòng, Thù mama thấy nàng vừa khóc vừa cười, bà thở dài một tiếng, nói: “Cô nương đừng suy nghĩ nhiều nữa, vốn thân thể cô nương đã không tốt, nếu còn suy nghĩ vẩn vơ, sáng mai lại ngã bệnh thì sao, chẳng phải sẽ không thấy được Tri thiếu gia rồi?” Vân Di nghe vậy nhanh chóng lau lau khóe mắt, lúc này mới ngẩng mặt nói: “Vú nuôi, ta nhất định phải làm cho Tri Nhi có thể quang minh chính đại mà sống. Nỗi oan của ca ca năm đó ta sẽ thay huynh ấy rửa sạch. Vân gia ta không thể cứ tiếp tục xuống dốc như vậy được. Trước kia chỉ có một mình nữ tử ta đây nói gì cũng đều là si tâm vọng tưởng, nhưng nay Tri Nhi vẫn sống sót trở lại, đây là ông trời có mắt, nhất định là cha mẹ, ca ca cùng chị dâu trên trời có linh thiêng phù hộ chúng ta.” Thù mama nghe vậy hốc mắt đỏ lên, một hồi lâu mới nói: “Cô nương đã nghĩ kỹ chưa? Ngài muốn đáp ứng yêu cầu kia của Quan tướng quân?” Vân Di nghe vậy liền gật đầu, nói: “Phải, ta đã suy nghĩ kỹ lắm rồi. Giờ Tri Nhi chỉ còn lại người thân duy nhất là ta đây, ta không thể khiến thằng bé phải chịu đủ tủi nhục nữa.” Thù mama vừa nghe vừa sụt sùi rơi nước mắt, nghẹn ngào nói: “Chỉ khổ cho cô nương thôi, xưa nay cô nương vẫn là người có chính kiến, cô nương đã nghĩ kỹ, vú nuôi cũng không ngăn cản nữa, thế nhưng mặc kệ đi chỗ nào, cô nương cũng phải mang theo vú nuôi, vú nuôi hầu hạ cô nương cả đời.” Vân Di nghe vậy hốc mắt cũng đỏ theo, nàng cười tiến lên kéo tay Thù mama, nói: “Di Nhi tất nhiên đi chỗ nào cũng phải mang theo vú nuôi, nếu không Di Nhi cũng ăn không ngon ngủ không yên mất.” Thù mama nghẹn ngào gật đầu, vuốt ve tóc Vân Di, than một tiếng mới nói: “Trước kia vẫn nghĩ Quan tướng quân là người tốt, ai ngờ ngài ấy thế nhưng…” Vân Di nghe vậy thì vội vàng cắt đứt lời Thù mama nói: “Vú nuôi về sau chớ có nói mấy lời này nữa, chúng ta nên cảm ơn người ta mới đúng, người ta không quen không biết, lại chiếu cố chúng ta lâu như vậy, cứu ta ra khỏi bể khổ, đây đã là đại ân đại đức, ở đâu còn dám yêu cầu gì hơn, người ta lại không nợ chúng ta cái gì. Huống chi cũng không phải là ngài ấy ép buộc ta, là tự ta nguyện ý…” Thù mama nghe vậy, không cho là đúng nói: “Trước kia dù sao thiếu gia cũng đã từng dìu dắt chiếu cố Quan tướng quân, chính là nể mặt thiếu gia…” Vân Di nghe vậy lần nữa cắt lời Thù mama nói, lắc đầu: “Vú nuôi đừng nói bừa, Quan tướng quân là thân phận nào, ngài ấy có xuất thân như vậy, cần gì ca ca ta phải dìu dắt, chẳng qua là nhớ tình đồng đội nên mới nói thế thôi. Nếu chúng ta còn được nước lấn tới, yêu cầu nhà người ta phải làm thế này thế nọ, chẳng phải là làm trò cười cho thiên hạ hay sao?” Thù mama thấy trên khuôn mặt tái nhợt của Vân Di hiện lên nụ cười quật cường, bà đành thở dài, một hồi lâu mới nói: “Cô nương nói đúng lắm, về sau vú không nói lời này nữa.” *** Hôm sau, một trận mưa qua đi để lại không khí tươi mát, trời đất trong lành, mặt nước yên ả, phảng phất như rửa hết bụi bặm còn sót lại. Sáng sớm đã có một chiếc xe ngựa đi từ cửa hông ra khỏi Quan phủ, Tuệ An kéo tay Vân Di ngồi lên xe, nàng vén tấm rèm lụa, thấy Quan Nguyên Hạc mặc trường bào xanh thẫm ngồi trên lưng ngựa đi ở phía trước thì vô thức nhoẻn miệng cười, vừa quay đầu lại nhận được ánh mắt trêu ghẹo của Vân Di, mặt Tuệ An ửng hồng, trừng Vân Di một cái vội vàng phất rèm xuống. Vân Di che miệng cười khanh khách, một lát mới nhìn vẻ mặt đỏ ửng của Tuệ An nói: “Chị dâu cứ ngắm tiếp đi, Vân Di thật sự không nhìn thấy gì cả.” Tuệ An cười quay qua cù Vân Di, hai người cười đùa một hồi, sau đó mới cầm tay hàn huyên nói chuyện: “Vân Di thực hâm mộ chị dâu, người có tâm có thể thành thân thuộc.” Tuệ An nghe vậy thì nắm tay của nàng, nói: “Yên tâm đi, chờ muội sau này gả cho lang quân như ý, nhất định sẽ không cảm thấy hâm mộ ta nữa. Muội tính tình tốt, bộ dáng cũng tốt, còn sợ tương lai không tìm được ‘người có tâm’ sao, đến lúc đó xem ta cười muội thế nào!” Vân Di nghe vậy liền thu lại nụ cười trên mặt, sau đó mới nói: “Chị dâu nói thế Vân Di lại không dám nhận đâu, Vân Di không trêu ghẹo chị dâu nữa, chị dâu cũng bỏ qua cho Vân Di đi.” Tuệ An đắc ý nhướng mày, hai người lại náo loạn một hồi, thấy đã ra khỏi cửa thành, Tuệ An vén rèm lên nhìn phong cảnh ven đường. Bên ngoài bốn bề xanh biếc, chim chóc thi nhau hót líu lo, bầu trời phủ màu ngọc bích, gió nhẹ phất qua mặt lại càng mang theo hơi ẩm của nước mưa đêm qua, khiến lòng người khoan khoái không thôi. Nàng cười quay lại, thấy Vân Di chống tay vào cửa sổ cũng nhìn ra bên ngoài, vẻ mặt có chút cô đơn đau thương thì hơi sững sờ, lại kéo tay của nàng, nói: “Lại nhớ đến đứa cháu kia của muội à? Sao muội hay suy nghĩ vẩn vơ thế, thân thể mới dưỡng tốt chẳng bao lâu, muội thì chẳng bao giờ chịu nghe lời cả!” Vân Di nghe vậy quay đầu lại, cười nói: “Tính ra chị dâu cũng chỉ hơn Vân Di chưa đầy nửa tuổi, vậy mà giọng điệu khi nói đã tràn đầy răn dạy rồi, giống như trưởng bối của Vân Di ấy.” Tuệ An sững sờ, thầm nghĩ quả thật là lớn hơn rất nhiều đấy, trên mặt lại cười nói: “Muội nha đầu kia, lại trêu ghẹo ta!” Trong xe ngựa vang lên tiếng cười đùa của hai người, Quan Nguyên Hạc cưỡi ngựa đi trước, nghe tiếng cũng hơi quay đầu nhìn lại, khóe môi cong cong. Giờ Thìn hai khắc, xe ngựa đến chân núi Tê Hà, nơi này sớm đã có vô số người đến người đi, hối hả ngược xuôi, quả nhiên đến đây thắp hương bái Phật đúng là không ít. Xe ngựa không thể lên núi, Tuệ An và Vân Di cùng nhau xuống xe, Tê Hà tự an vị ở tít trên đỉnh núi, đường từ chân núi trải dài lên trên được tu sửa hằng năm, cực kỳ bằng phẳng, đều là đá xanh lót đường. Giữa sườn núi còn có tăng nhân mặc tăng bào dẫn đường, dưới chân núi cũng có dân chúng mở quán cho khách hành hương nghỉ chân. Đám người Tuệ An một đường lên núi, Tuệ An không ngồi kiệu, vừa nhìn phong cảnh vừa đi bộ lên núi, Vân Di bởi vì thân thể không tốt nên cần người dìu đi. Đợi đến trước miếu, dưới sự hướng dẫn của tăng nhân, Tuệ An vào điện lễ bái, dâng hương, lại bỏ không ít tiền nhang đèn, một phen lăn qua lăn lại liền đến buổi trưa. Mấy người Quan Nguyên Hạc, Tuệ An cùng Vân Di được tăng nhân dẫn ra phía sau Điện Trai đường, Quan phủ sớm đã bao hết sân nhỏ, tăng nhân mang bọn họ vào viện, lại mở cửa một gian sương phòng. Tuệ An đang muốn cất bước đi theo, lại bị Quan Nguyên Hạc níu lấy, Tuệ An sững sờ, nghe Quan Nguyên Hạc nói với Vân Di: “Vân cô nương vào đi thôi, chúng ta qua bên kia.” Quan Nguyên Hạc nói xong liền kéo Tuệ An đi sang sương phòng đối diện, Tuệ An biết là cháu trai của Vân Di đang ở trong sương phòng đó, nàng không yên tâm quay đầu lại, gặp Vân Di lảo đảo bước vào phòng, sau đó bên trong liền truyền đến một hồi tiếng khóc.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
 
Trở lên đầu trang