[Dịch] Linh Phi Kinh - Sưu Tầm

Chương 3 : Đông Đảo Tam Tôn 2

Người đăng: Magic_Q

.
Dịch giả: livan Nguồn: https://linhphikinh.wordpress.com Đang trong cơn u sầu, cô chợt nghe từ trên sóng nước vọng đến một giọng ca trong sáng: "Lục đại phồn hoa, xuân khứ dã, canh vô tiêu tức. Không trướng vọng, sơn xuyên hình thắng, dĩ phi trù tích. Vương Tạ Đường tiền song yến tử, Ô Y hạng khẩu tằng tương thức. Thính dạ thâm, tịch mịch đả cô thành, xuân triều cấp. Tư vãng sự, sầu như chức. Hoài cố quốc, không trần tích. Đãn hoang yên suy thảo, loạn nha tà nhật. Ngọc thụ ca tàn thu lộ lãnh, yên chi tỉnh phôi hàn cung khấp. Đáo như kim, chích hữu Tương Sơn thanh, Tần Hoài bích!" Khúc hát này (điệu 'Mãn giang hồng') chỗ trầm chỗ bổng vang vọng trên khắp mặt sông, khi cao, cao tựa mây xuyên đầu núi, lúc thấp, thấp như phát từ cung đàn trầm, liền lạc không ngừng. Dứt khúc ca, dư vận miên man tựa sương mù vẩn vương hẻm núi, mãi chẳng tản đi. Chu Vi không khỏi kinh ngạc, cô nhìn về phia đó, thấy một con thuyền nhỏ từ đầu sông đang trôi xuôi, đứng đầu thuyền là một tăng nhân trẻ tuổi, thân hình cao lớn, dáng vẻ tuấn tú, tăng bào một mầu trắng vờn bay trong gió, nom tựa như mây trôi sương cuộn đang chập chờn che khuất vầng trăng thanh. Chu Vi thầm cao hứng tán thưởng: "Giọng ca hay, phong thái đẹp" Tiếng ca làm kinh động hai bờ sông, từ bên trong các nhà thuỷ tạ, lầu các, nhiều kĩ nữ rủ nhau chạy ra, nhìn xem tăng nhân nọ, đều vẫy tay reo mừng. môi mắt bạch y tăng cũng hiển lộ nét cười, hắn liên tục vung vẩy ống tay áo trái để đáp chào bọn họ. Chu Vi rất ngạc nhiên, hỏi: "Nhà sư đó là ai? Là người xuất gia, tại sao ông ta cùng mấy kĩ nữ kia lại có vẻ thân quen đến thế?" Lạc Chi Dương cười nói: "Ta không quen biết ông sư đó, đã chỉ được nghe nhiều người nói đến. Hắn tự xưng ‘tình tăng’, từng lăn lóc nhiều năm ven sông Tần Hoài này, nghe đồn các ngón cầm kì thư họa của hắn đều thuộc hạng tuyệt diệu, cộng thêm dáng vẻ thanh lịch, giọng ca rung động lòng người, bọn danh kĩ ven sông đây không ai không dính điều tiếng với hắn." Chu Vi nghe giải thích xong bỗng phát bực bội, cô nói: "Hắn thân ở cửa không, sao có thể qua lại cùng mấy bọn liễu ngõ hoa tường cho được? "Tình tăng’ nỗi gì, hừ, ta thấy phải gọi là ‘dâm tăng’ mới đúng!" Ngoài miệng dè bỉu, nhưng trong lòng cô cũng không khỏi tiếc thầm: "Tiếc thay cho một thân phong độ nhường ấy, ôi, bàn về giọng hát lời ca, thập thất ca cũng phải nhường hắn một bậc!" Lãnh Huyền đột nhiên hừ một tiếng, nói: "Qua lại với ngay cả liễu ngõ hoa tường, chưa hẳn là dâm tăng, ngồi chỉnh tề trên bục cao của miếu đường, vị tất đã quân tử. Trong thiên 'Xao Hào ca', Lữ Đồng Tân có luận rằng: ‘Người tu đạo, là hán tử tiêu sái thực sự, tửu là thân hữu tốt, mặt hoa là bạn bè, tìm chân đạo trong chốn liễu ngõ hoa tường, vui hưởng chân đạo chỉ ở chốn ngõ liễu tường hoa. Nếu cấm tuyệt tửu sắc, chẳng qua chỉ đạo hạnh hạng thứ ba của đám cao tăng kia, của lũ đại đức nọ, dù vẻ mặt coi thanh cao đạo mạo, nhưng trong lòng chúng tràn ngập điếm đàng, gọi bằng một chữ thì là 'tăng', hai chữ 'hòa thượng', ba chữ 'quỷ nhạc quan', bốn chữ 'sắc trung ngạ quỷ'!" Nghe lão bàn luận, Lạc Chi Dương thích thú, cười hỏi: "Đạo hạnh mà còn phân cao thấp à? Đệ tam lưu thì như thế, vậy đệ nhị lưu sẽ ra sao?" Lãnh Huyền nói: "Đạo hạnh đệ nhị lưu là, thấy tửu phải uống, gặp sắc thì dâm, dù bị lôi cuốn vào những cám dỗ của thế tục, nhưng thường biết dừng đúng lúc, luôn giữ lương tâm khi gặp tình huống khó lường. Cái đó giống như người qua cầu độc mộc, bên dưới cầu là những sa ngã của sự non dại, sẩy bước chân ắt bị chìm đắm vào trong đó.Hạng nhân vật kiểu đó, khi họ đi trọn đường đạo gian nan, cuối cùng vượt trội hơn hẳn lũ ngụy quân tử, bọn sư hổ mang." "Còn đệ nhất lưu thì sao?" Lạc Chi Dương lại hỏi. "Đạo hạnh đệ nhất lưu, uống rượu mà không say sưa,thấy sắc vẫn không lạm dâm, vào được thì ra được, đi đến được thì lui về cũng được, hoà đồng với tất cả, lội nước bùn mà không nhiếm bẩn, trong vòng thế tục không nhiếm bụi trần, cho dù vào chốn ngõ liễu tường hoa, cũng sẽ không đánh mất tấm lòng son sắt vì đạo!" Lạc Chi Dương cười nói: "Mấy nghị luận này nghe thiệt thú vị, vậy thì, xin hỏi Lãnh, Lãnh tiên sinh, ông sư đó sắp xếp vào hạng nào trong ba cái lưu đó?" Lãnh Huyền cười mà không đáp, nhắp một chút trà, bình thản hỏi: "Các vị hai người uống vậy đủ chưa?" Chu Vi chưa kịp nói gì, Lạc Chi Dương cướp lời: "Còn chưa đủ!" Lãnh Huyền liếc hắn, chẳng có vẻ gì là tức giận, lão thở ra, nói: "Chẳng sao, dù gì, mình không thể đi được nữa rồi!" Lạc Chu hai người đâu mặt ngó nhau, Chu Vi lấy làm lạ: "Sao lại đi không được?" Lãnh Huyền nhíu mày, trầm mặc không đáp. Lạc Chi Dương nghĩ thầm có chuyện gì khác thường, hắn ngoái trông ra, thấy bạch y tăng, tụ bào khoáng khoát, dáng đi như nước chảy mây trôi, đang chầm chậm tiến bước về quán "Tiên Nguyệt". Chu Vi , Lạc Chi Dương nhìn nhau, người nọ có thể thấy nét kinh ngạc trong ánh mắt người kia. Sau một khoảnh khắc lặng yên, bạch y tăng đã lên đến tầng ba, khi nhìn gần, hoà thượng này khá là cao, hơn người bình thường một cái đầu, thân hình cân đối, da dẻ trắng mượt, xem về khuôn mặt, ngũ quan, hình dung tuấn tú, coi không giống nam tử, nó như nặn, như vẽ, nhưốm vẻ hoà hoãn mà kiên nghị. Thấy ba người, hắn nở nụ cười trông tựa hoa nở, như trăng rầm, tầng lầu trà quán này dường như cũng bừng sáng theo lên. Nhạc Chi Dương tuy là nam tử, nhìn nụ cười đó, tự dưng gã không khỏi mặt đỏ bừng, tim rộn rã, gã nhìn trộm vào Chu Vi, thấy cô gái cũng đang chú mục vào nhà sư, có nét mê đắm trong ánh mắt. Bạch y tăng tiến hai bước tới ngồi tại cái bàn trong góc, cất giọng trong trẻo: "Hầu trà, đem cho một bình Quân Sơn Bích Loa Xuân." Thanh âm thanh thoát, nghe như tiếng châu ngọc chạm nhau. Chẳng mấy chốc, hầu trà bưng khay trà đặt lên bàn, bạch y tăng vẻ thung dung, tự châm trà ra chén mà uống, mắt không hề nhìn về phía ba người. Lãnh Huyền lại hơi hơi cau mày, lão giữ tách trà trong tay, không uống, cũng không đặt cái tách xuống. Chợt ven sông nổi lên một tràng huyên náo, Lạc Chi Dương tò mò, ghé vào cửa sổ nhìn ra, thấy trên con đường dọc bờ sông, một người đàn ông trung niên đang đi đến, y mặc áo dài nhà nho mầu trắng bạc phếch, trên đầu đội mũ đính ngọc trai xuyết bạc, sắc mặt xanh xanh, hơi tái xám, giống như người bệnh, bước chân loạng choạng lảo đảo như muốn té ngã. Đi theo không xa sau lưng y là một đám đông đàn ông lẫn đàn bà, người thì trần trùng trục, rõ ra một anh đồ tể, có kẻ tạp dề ngang eo, tay áo lấm lem dầu mỡ, dáng chừng một ả đầu bếp. Người đi trong đám đông hò reo dức lác, miệng mệt thở phì phò vì chạy nhiều, nhưng cho dù họ chạy nhanh đến đâu đi nữa, cũng chẳng theo kịp gã bệnh hoạn áo trắng bạc màu. Lạc Chi Dương hết sức kì lạ, hắn chú thần nhìn kỹ, phát hiện mé sau gã đó, ngoài đám đông kia, còn có rất nhiều đồ vật kỳ quái đủ loại, có dao mổ heo, có móc treo thịt, có chảo sắt dùng chiên xào, có thanh cời lò lửa, thấy luôn cả chậu sắt, sạn xào thức ăn, mỏ neo, cuốc xẻng… Những đồ vật đó thảy như có sức sống, cái thì nhảy tung tăng, cái thì chạy lạch bạch, còn có thứ vừa chạy nhảy, vừa kêu leng keng, bất kể to nhỏ lớn bé thế nào, chúng đều kết dính chùm đi theo bên mình gã áo trắng. Gã áo trắng bạc màu có vẻ thong dong, đi chợt nhanh chợt chậm, bước ngắn tầm một thước, bước dài đến cả trượng, khi gã đi ngang qua một cửa hiệu thêu thùa, từ bên trong bỗng bay ào ra một vầng kim thêu dầy đặc, hệt như ong vỡ tổ. Lạc Chi Dương còn đang kinh ngạc, gã áo bạc trắng vung tay một phát, một cái chảo sắt từ dưới gót chân gã vụt tưng lên, nghe leng keng leng keng liên hồi bất tận, đầy trời kim thêu bỗng dưng bay biến hết không biết về phương nao. Bà chủ tiệm thêu thùa không biết xảy ra chuyện gì, cài tạm cây kim đang cầm xuống dải lụa trong tay, bà bước ra xem, bà phát hoảng khi chứng kiến cảnh tượng chảo sắt kim thêu đó, đôi chân bà nhũn xuống, làm bà phải bíu tay vịn mà đứng dựa vào khung cửa. Đám đông đuổi theo gã cũng thấy không ổn, lần lượt ngừng bước, họ đứng xa xa, ngẩn ngơ quan sát. Gã áo bạc màu kéo theo mình một đống đồ vật bằng sắt, đi đến gần quán trà “Tiên Nguyệt”, gã ngẩng đầu đọc tiêu ký và bảng hiệu, rồi đưa một tay che miệng, gã ho khan hai tiếng, xong rồi, tay trái vươn ra, gã khua một vòng, nghe đinh đinh đang đang một loạt, những đồ sắt đang nằm đầy mặt đất bỗng nhảy dựng lên, chúng kết nối lộn xộn vào với nhau thành một quả cầu sắt. Gã áo trắng bạc phơ lơ đãng đưa tay nâng quả cầu sắt lên, giống như ta đưa tay bưng một rổ kẹo, rồi gã lảo đảo đi vào trà quán. Trên lầu ba, mọi người chỉ nghe tiếng cọt cà cọt kẹt, âm thanh của nguyên toà nhà gỗ đang rung chuyển. Chẳng mấy chốc, gã áo trắng bạc màu xuất hiện, gã đưa mắt liếc sơ một vòng, rồi gã thẩy quả cầu sắt xuống, đi đến ngồi vào một cái bàn kế bên, cất cái giọng thiếu hơi: “Hầu trà, cho một chén Lục An Qua Phiến!” Hầu trà mặt tái mét, rón rén lần theo vách tường đi xuống dưới pha trà. Gã áo trắng bạc vẫn ngồi đấy, thở hổn hển. Lạc Chi Dương trông thấy vô số món đồ bằng sắt kết hợp lại thành quả cầu, dính nhau không rời, cổ quái khộng thể tưởng, hắn đâm tò mò, cứ dán chặt mắt vào quả cầu mãi khômg thôi. Chẳng dè gã áo trắng bạc màu ngoái lại, khi bốn ánh mắt lạnh lẽo chạm vào nhau, Lạc Chi Dương chợt run bắn người, phải cuống quít cụp mi mắt xuống. Đúng lúc ấy, từ phía sông lại nổi lên một tràng tiếng hò reo kinh hoàng, không ít người rùng rùng đổ xô từ khắp mọi căn nhà ven sông chạy ra xem, họ dồn mắt nhìn, tay chỉ chỏ về cùng một hướng nơi xa. Lạc Chi Dương rảo mắt nhìn vào, hắn kêu ‘ủa’ một tiếng kinh hãi. Chỉ thấy từ nơi xa xa, một chiếc thuyền buồm màu đen, bay lửng lơ cách bên trên mặt nước khoảng vài thước, đang chầm chậm tiến về quán, đầu thuyền có một mụ tay chèo, đuôi thuyền có một gã sào công. cả hai mặt mày tái xanh tái xám đang cùng la hét chói lói, cùng vẫy, cùng quơ loạn tay về phía hai bên bờ sông. Thuyền bay trên không! Giưã ban ngày ban mặt lại xảy ra một việc quái đản, trong lòng Lạc Chi Dương phát hoảng, nhận thấy chiếc thuyền bay đó tiến vào mỗi lúc một gần. Bỗng nhiên, hắn nhìn ra cái áo diệu bên trong của thuyền bay, thuyền không phải tự thân nó lửng lơ trên không, mà vì bên dưới có một người đang dùng hai tay tận lực nâng cao con thuyền, dưới chân kẻ đó là hai cái cà kheo, mường tượng như một con cò chân dài, hắn đang sải bước đi vào bờ sông bên này. Lạc Chi Dương bật cười, nói: “Cái trò này xem hay quá, mình mà có công phu thì cũng làm thử chơi cho biết!’ “Rõ là không biết trời cao đất rộng!” Chu Vi nhẹ lắc đầu,”Người ta làm thì xem thật hay ho, nếu để ngươi vô đó, muốn di chuyển một bước cũng đừng hòng!” Lạc Chi Dương lấy làm lạ, hỏi cô: “Tại sao vậy?” “Ngươi xem kỹ mà xem!” Chu Vi chỉ vào chỗ đó trên con sông, “Cà kheo kia là bằng tre cật tạo nên, bỏ xuống nước thể nào cũng nổi dựng lên. Một khi đi cà kheo dưới sông, hai chân chợt cao chợt thấp, nhất định là sẽ bị xiêu xiêu vẹo vẹo, mà hắn còn vừa đi vừa nâng thuyền, cả thuyền cộng người trên thuyền nặng cũng cỡ hơn ngàn cân, lắc qua lắc lại như con vụ, hắn còn phải dấn cà kheo cho chạm thật sát vào đáy sông, chưa kể nước chảy siết, tạo thêm lực cản vào cà kheo. Cà kheo càng cao, lực cản càng lớn, nếu hắn không có sức mang nặng ngàn cân, đừng hòng nhấc nổi ngay cả một chân!” “Ngay cả có khí lực cũng không làm nổi!”, Lãnh Huyền chậm rãi nói,”Trò đó cần công phu nội gia thật cao siêu, không có cái xảo kình hạng nhất đó, đừng mong có thể đạp thẳng cà kheo xuống, chỉ làm cho cây tre cật gẫy đôi tức thì!” Nói đên đấy, gã áo trắng bạc màu ngồi kế bên bỗng hừ một tiếng, Lạc Chi Dương đưa mắt nhìn qua, người nọ chỉ mải uống trà, đến ngay cặp mắt y cũng không trông về phía bên này. Bộ dạng đi cà kheo coi thật thần kỳ, người nọ sải từng bước dài cỡ một trượng, trong chốc lát đã tới trước mặt quán “Tiên Nguyệt”, hắn đột nhiên dừng bước, nhẹ nhàng đẩy chiếc thuyền đen một đẩy, rồi đặt nó xuống mặt nước. Cặp cà kheo không còn chịu sức nặng của thuyền nữa, đã bị nước đẩy nổi hẳn lên trên. Người nọ mượn lực đẩy đó, tung mình lên cao, giưã không trung , hắn xoay chuyển thân mình, nghe ‘kịch’ một tiếng, cà kheo đã được phóng xuống trước trà quán, đâm xuyên qua làn gạch xanh lót sân, cắm vững vàng xuống đấy. Người nọ cười ‘hì’ một tiếng, rời cà kheo, nhảy vào trà lâu, y ném hai cây gậy trúc cắm xuống trước quán trà, làm chúng lay động liên hồi. Lạc Chi Dương nhìn kỹ người vừa tới, thấy hắn tuổi độ tứ tuần, mặt gầy, râu dài, trên mình diện một áo vải hoa màu sặc sỡ, quần áo xộc xệch, trong ánh mắt xảo quyệt có đôi nét khôi hài, mới gặp tưởng là một tay mại võ Sơn Đông bán thuốc dạo, quyết chẳng thể tưởng được hắn mới vừa hiển lộ một tuyệt kỹ kinh ngườii. Người áo hoa đưa mắt liếc một vòng, mỉm miệng cười, nói: "Thi Nam Đình, ông đến khá sớm nhỉ!" Gã áo trắng bạc màu hừ một tiếng, hỏi: "Tại sao chỉ có mỗi mình ông thôi? Dương Phong Lai đâu?" Người áo hoa cười, đáp: "Bọn ta đánh cuộc với nhau, ta đi theo đường sông, hai chân không được dính tí nước nào, hắn thì đi theo lối mái nhà, cấm không được làm tróc một hòn ngói, xem xem ai đến đây trước. Hiện thời, ta đến trước hắn một bước, xem chừng hắn bịnh cũ tái phát, gặp nơi đây nhà cửa san sát như bát úp, đối với hắn, thật đúng là một tòa mê cung!" Nói đến đấy, hắn ngoái trông lại, cười, "Kià, hắn cũng đã đến rồi kia!" Mọi người quay ra nhìn, thấy một người áo đen, di chuyển thân mình như rồng, như rắn, đang nhô lên thụp xuống trên những mái nhà bên kia sông, trong tay hắn là hai dải lụa bạch thanh mảnh, chúng như vật sống, kế tục nhau quấn vào gờ mái nhà, vung một cái, kéo một cái, nhoang nhoáng đưa hắn nhảy vượt qua nhiều căn nhà, người bên dưới trông thấy thế, đều hè nhau kinh hãi mà la hét ầm ĩ. Chỉ trong chớp mắt, người nọ đã đến bờ sông bên kia, nơi đối diện trà lâu. Người áo hoa cười cười: "Đây mới thực là tuyệt đây, để xem hắn qua sông bằng cách nào?" Chỉ thấy dải lụa trong tay trái người nọ quấn vào góc một căn nhà, nó căng ra, đưa y đằng không ra giữa sông, rồi dải lụa đó bay vòng vèo theo sau y, dải lụa bên tay phải đã được y vung ra, không mau không chậm, đã quấn thít ngay vào chiếc thuyền đen mà người áo hoa để lại đấy. Con thuyền hơi đằm xuống, người nọ thân như một con trốt, từ trên thuyền, thừa thế tung mình lên rõ cao, dải lụa trong tay trái y lập tức vung ra, quấn chặt vào hai cái cà kheo cắm trước lầu. Đôi cà kheo bị lực kéo uốn oằn cong xuống, hệt như một cánh cung, dải lụa còn căng hơn sợi dây cung, đã 'vù' một tiếng, đem bắn gã áo đen tuốt vào trong lầu. "Dương Phong Lai!", người áo hoa cười cười, lớn tiếng la mắng, "Thuyền là do ta mang đến, cà kheo cũng là do ta cắm xuống, đâu có thể để cho ông dùng chúng mà tá lực kiểu ngoạn mục như thế được? Cái đó là ông lấy lý lẽ ở đâu ra vậy?" Dương Phong Lai không cao không thấp, có hai hàng râu thưa thớt chữ bát, nghe lão ta nói thế, y trợn mắt, mở miệng mắng ngay: "Minh Đấu, ngươi còn dám chường mặt ra mà nói, ngươi biểu ta, 'Tiên Nguyệt' là ở kế miếu Phu Tử, ta chạy vòng vòng nơi miếu Phu Tử, đừng nói quán Tiên Nguyệt, đến một cái lầu chó má cũng không thấy. Ngươi lừa ta đi đến miếu Phu Tử, chính ngươi lại tà tà tới đây. Không tính, không tính, vụ cá cược này là không tính!" Minh Đấu cười: "Dương Phong Lai, không phải hai năm trước ông đã có đến đây sao? Ai kêu ông không tự mình nhớ lấy đường? Bộ hễ ta nói miếu Phu Tử, là nó ở miếu Phu Tử hay sao? Ta lại không phải cha ông, ông nghe theo lời ta làm chi!" Dương Phong Lai nghẹn thở, tức giận đến hai mắt trắng dã. Chợt thấy Thi Nam Đình thở dài: "Minh Đấu, lời ông nói đó là cường từ đoạt lí, ông biết rõ lão Dương vốn hay lạc đường, ông lại chỉ dẫn bậy bạ, đó không phải lường gạt thì là cái gì?" Dương Phong Lai gật đầu lia lịa: "Lão Thi nói thiệt là có lý!" Minh Đấu cười, đáp: "Lý lẽ cái gì? Binh bất yếm trá, tướng quân ra trận đánh giặc cũng bày mưu tính kế lường gạt đối phương kia mà! Nói gì thì nói, ta đến đây trước một bước, Dương Phong Lai, lão chịu cá cược, bây giờ thua, mau đưa vật đặt cược ra đây!" Dương Phong Lai e hèm hai tiếng, lấy từ trong bọc nơi lồng ngực ra một cái hộp, y định mở nắp, Minh Đấu đã giật ngay lấy cái hộp, cười to, gọi: "Hầu trà, đem cho ba cái bát Hắc Từ Thố Hào, một bình nước thiệt sôi lên đây!" Hầu trà chứng kiến bản sự của ba người nọ, sớm đã lạc mất hồn phách. Hắn dạ dạ, đem chén và bình nước sôi đến. Minh Đấu mở toang cái hộp, nhón ra dăm lá trà bỏ vào trong chén, sắc trà xanh nhạt trăng trắng, xem chừng không rõ xuất xứ, chỉ là khi rót nước sôi vào, trong lầu bỗng ngập ngụa một hương lạ, nửa mùi trà, nửa mùi sữa, mà chẳng giống hẳn vào mùi nào, lại có nét tử khí câu hồn đoạt phách. Thi Nam Đình chăm chú nhìn chén trà, mặt đầy vẻ kinh ngạc: "Trà gì thế này? Bốc mùi ngó bộ kỳ quặc!" Dương Phong Lai mặt đang đen bỗng đỏ bừng, không nói gì. Minh Đấu lại cười cười: "Ta biết rồi, trà này có tên là Thần Anh trà! Đó là cái món mà lão Dương đã cướp được từ tay một tên yêu đạo!" Thi Nam Đình lấy làm lạ: "Thần Anh trà? Sao bị gán cho một cái tên như vậy?". Minh Đấu cười "Như cái tên hàm ý, trà này giống như trẻ con, được nuôi sữa mẹ mà lớn lên." Hắn thấy Thi Nam Đình vẫn giữ vẻ nghi hoặc, không khỏi giải thích," Lão Thi ông là người rất chân phương, không biết đến những hiểm ác của đời. Nói cho rõ, trà này, không biết yêu đạo lấy giống ở đâu, mỗi ngày đều tìm nhiều nhũ mẫu vắt lấy sữa để tưới cây trà, cây trà lớn lên, cho mầm, cho giống mới, lại lấy mầm, giống đó trồng tiếp bằng sữa... lâu ngày mới sản sinh thứ trà hương sắc như thế, tên yêu đạo đó lòng ma dạ quỷ, coi trà này hệt như sinh ra từ sữa mẹ, nguyên anh còn hơn trẻ sơ sinh, uống mãi thứ trà đó, lâu ngày có thể đắc đạo thành tiên." Thi Nam Đình nhìn nhìn vào trà trong chén, nhíu mày hỏi: "Tên yêu đạo đó bây giờ ở đâu?" Minh Đấu cười, ngoái nhìn Dương Phong Lai, gã này vẻ lơ đãng, nói: "Hắn chẳng thành tiên, mà lại ra ma mất rồi!" Thi Nam Đình hỏi: "Ông đã giết hắn?" Dương Phong Lai đáp: "Hắn bắt mất nhũ mẫu, làm đứa trẻ thiếu sữa mà chết, gặp đúng lúc ta đi ngang qua, đã tiện tay can thiệp vô một chút!" Thi Nam Đình gật đầu: "Giết là phải!" Gã hầu trà đứng kế bên nghe chuyện giết chóc, y phát sợ tới mức hai bên đùi run rẩy, không đứng vững cho nổi. Minh Đấu cười hì hì, nâng chén nhắp một ngụm, khen: "Mùi hương lạ vương vấn, hậu vị không dứt, trà ngon, trà tốt, có lẽ uống xong vài ngụm, Minh mỗ sẽ hóa thành một làn gió, bốc thẳng một lèo đến Nam Thiên môn (ND: Cưả nhà trời - Truyện Tây Du)!" Dương Phong Lai "Phi" một tiếng, bảo: "Ngươi mà có đến được Nam Thiên môn, cũng vẫn chỉ là một con khỉ khô!" Nói xong, lão nâng chén trà, nhắp thử một ngụm, hai mắt nhắm lại, đầu gật gù, chừng như đang tìm hậu vị của trà. Lạc Chi Dương ghé sát vào tai Chu Vi, thì thầm: "Trà coi bộ ngon ghê ui!" Cô gái hầm hừ lườm hắn, nghiến răng: "Ngươi mà uống vô một ngụm, ta... ta là suốt đời này không ngó đến ngươi nữa!" Lạc Chi Dương ngạc nhiên: "Tại sao?" Chu Vi ngẫm nghĩ, hạ thấp giọng: "Trà ma quỷ của yêu đạo, ai uống vô cũng bị dính một mùi yêu khí!" Lạc Chi Dương nháy cô một cái, cười cười: "Yêu khí cũng chưa chắc, chỉ sợ bị trúng một cỗ nhũ xú khí!" Chu Vi bị hắn nói đúng tủ, cô vừa thẹn vừa bực, giằn dỗi với hắn: "Ngươi muốn uống thì cứ uống, ta chẳng rỗi hơi đi kiểm soát ngươi!" "Tiểu huynh đệ muốn uống không?" Minh Đấu đột nhiên thò đầu sang, cười, bảo Lạc Chi Dương, "Có trà ngon thì phải cùng nhau vui thú mà hưởng, mình gặp mặt nhau đây tức là hữu duyên!" Nói xong, lão nhắm vào một chén trà, ngón tay nhẹ nhàng búng một cái, nghe "cạch" một tiếng, chén trà liền nhắm hướng Lạc Chi Dương bay đến. Chén trà lừ lừ bay, giống như nó được một bàn tay vô hình nâng đỡ từ bên dưới, Lạc Chi Dương đang định thò tay ra đón, bỗng hắn nghe Chu Vi quát: "Đừng đụng vào đó!" Nói xong, bàn tay mềm mại của cô vung ra, đầu ngón tay quẹt vào cạnh chén, làm cái chén Hắc Từ Thố Hào xoay tròn, nước trà trong chén bị kích phát, bắn vọt lên cao hơn một thước, tạo cột nước trong suốt, sắc màu như đào như tuyết. Chu Vi một chỉ vừa chạm vô cái chén, cô vụt đỏ bừng hai gò má, thân mình chẳng gượng lại được, cô bị đẩy lùi ngay về phía sau, nghe 'rắc rắc' hai tiếng, lưng ghế của cô đã gẫy làm đôi. Thế đẩy lùi của cô gái vẫn không gián đoạn, nghe 'rầm' một tiếng, người và ghế đã đâm xầm vào một cái cột tròn, làm nguyên tầng lầu nhẹ rung lắc theo, bụi bặm từ trên rường, trên xà nhà đổ xuống rào rào. Lãnh Huyền bỗng đưa tay đón, chụp được cái chén đang xoay tròn, lão nhấp một ngụm, dáng lơ đãng, nói: "Đồ kì dâm quái xảo, uống vô hổng có mùi vị gì!" Lạc Chi Dương hoàn hồn, hắn cuống quít nhảy dựng lên, chạy ra đỡ Chu Vi, giọng gấp gáp: "Ngươi không sao chớ?" Chu Vi chu miệng, lắc đầu, cô hít vào một hơi dài, mầu đỏ ửng trên má nhạt dần, cô nhỏ giọng nói: "Ta vẫn ổn!" Lạc Chi Dương không hiểu những kỳ diệu vừa xảy ra, hỏi: "Chuyện gì vậy? Cái chén kia bộ nó phát khùng giống ..." Chu Vi nhẹ thở ra, cô ngoái nhìn chăm chú vào Minh Đấu, đôi môi mím nhẹ. Minh Đấu cười nói: "Lãnh công công thân ở hoàng cung, những trò lạ và hiếm ắt chứng kiến đã nhiều, cái tách trà hèn mọn này đương nhiên chẳng lọt vào con mắt sành sõi của công công. Minh mỗ lưu vong hải ngoại, nghèo rớt mùng tơi, ngoài bộ quẩn áo rách rưới này, chả có thứ gì khác có thể chưng diện ra. Lãnh công công là đại thiện nhân, thiện nhân làm việc lành, còn mong công công rủ lòng xót thương một con ma nghèo xác xơ như ta mà ban cho ta chút ít vui thú!" Đứng kế bên, Lạc Chi Dương nghe mà giật mình, theo khẩu khí Minh Đấu, rõ ràng hắn biết Lãnh Huyền. Lại nhớ đến câu nói hồi nãy của Lãnh Huyền, hắn chẳng khỏi lo thầm. Chuyển ánh mắt sang bên bàn Minh Đấu, trong ba người, Dương Phong Lai đang từng ngụm từng ngụm nhấm nháp trà; Thi Nam Đình điềm nhiên ngồi thẳng lưng, hai mắt đặt vào nước trà trong cái chén Thố Hào Tùng Văn, thần sắc mê man, tựa hồ đang lạc vào một thế giới khác ẩn tàng trong chén. Về phần Minh Đấu, hắn trước sau vẫn giữ vẻ mặt tươi cười, bộ dạng bất cần đời. Lạc Chi Dương trong lòng mù mờ, hắn lại dòm sang nhà sư nọ, thấy y mặt mày hớn hở, mắt sáng như sao, tia nhìn mang vẻ đánh giá từng người hiện diện trên lầu ba, kiểu cách tựa khách nhân đang theo dõi một vở tuồng hát bộ. Trong bầu không khí vi diệu của trà lâu, bỗng Lãnh Huyền đặt chén trà xuống, thở dài, nói: "Minh Đấu, bọn mình đã mấy năm rồi chưa gặp lại nhau?" Minh Đấu cười, đáp: "Không nhiều, không ít, đã mười lăm năm!" Lãnh Huyền gật đầu: "Như vậy, lệnh tôn chết thoắt cái cũng đã mười lăm năm rồi" Mặt Minh Đấu bỗng toát một vầng tử khí, cái nét cười trong mắt cũng tan biến đi, thay vào là ánh đao phong sắc lẻm, y nhe răng cười, thanh âm chát chúa: "Đúng vậy, còn mười ngày nữa là giỗ kỵ của gia phụ, mọi thứ tế lễ đều đã chuẩn bị xong xuôi, chỉ thiếu duy nhất một vật." Lãnh Huyền hỏi: "Vật gì?" Ánh mắt Minh Đấu gắn chặt vào đối phương: "Chỉ thiếu mỗi cái đầu của Lãnh công công!" Lãnh Huyền nhè nhẹ thở dài, hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ: "'Kình Tức công' của lệnh tôn hỏa hầu không tồi, nếu ta nhường ông ấy một chút, người chết ắt là ta thôi. Cái đầu này của Lãnh mỗ, thật ra chẳng đáng mấy tiền, nếu ngươi nghĩ mình có võ công cao hơn lệnh tôn, chớ e ngại, cứ tiện tay cắt lấy đi, đem làm tế phẩm cũng tốt, đem làm bình tiểu ban đêm cũng xong, toàn là do ngươi liệu dụng!" Minh Đấu" Hừ" một tiếng, đang tính trả lời, Dương Phong Lai bỗng đứng phắt dậy, nói to: "Lãnh Huyền, anh ruột của ta là Dương Phong Liễu có phải cũng là do ngươi giết?" "Đúng thế!" Lãnh Huyền chẳng suy nghĩ gì, buột miệng đáp ngay. "Đồ chó thiến chết dịch!" Dương Phong Lai đỏ mặt đỏ tía tai, giọng gay gắt, "Thi thể của anh ta bỏ ở đâu?" Lãnh Huyền thản nhiên nói: "Ta lo vụ giết người, còn xử trí thi thể như thế nào, chả phải chuyện của bỉ nhân. Chẳng qua, đối phó loại thích khách này, phần lớn Thánh Thượng ném cho chó ăn, cùng với cái gọi là chết đầu đường, chết xó chợ, chết dưới mương, chết dưới rãnh, vô bụng chó coi như chôn cất bằng quan tài sống rất tốt, lệnh đường huynh táng trong thứ quan tài đó, coi như được mồ yên mả đẹp!" Dương Phong Lai tức giận đến toàn thân phát run, y chỉ tay vào Lãnh Huyền: “Đồ chó thiến ở đợ! Mi bớt khoái chí đi, bữa nay là ngày tận số của mi đó!” Lãnh Huyền cười, nói: “Dương tôn chủ khen quá lời, ta một cái thái giám, còn có gì để khoái chí!” Hắn rảo ánh mắt, gật đầu, nói: “Đông Đảo có bốn tôn, ba người đã đến đây, xem chừng Lãnh mỗ bản mặt không nhỏ. Thế nhưng, Vân Hư thân là đảo vương, lại làm con rùa rụt cổ không dám thò đầu ra, thật sự khiến người ta phát rầu, Phi Ảnh Thần Kiếm, chiếu sáng Đông hải, coi vậy cũng chỉ là thứ khoa trương khoác lác.” “Thúi lắm!” Minh Đấu lui lui, xua tay lia lịa, “Đánh một cái rắm thúi hoắc!” Dương Phong Lai cũng la lớn: “Vân đảo vương không đến, đó là cái hên cho ngươi, ngươi đụng vô kiếm quang của ngài, chết là cái chắc!” “Thật không?” Lãnh Huyền cười u ám, tay vân vê vào cái cằm dưới nhẵn thín không râu, “Vậy tại sao hắn ở lì mãi tại Đông Đảo, không đến Trung Thổ? A, thật ra ta có nghe nói, ba mươi năm trước, hắn buông lời thề độc, ngày nào mà hắn còn chưa đánh thắng nổi cái người ở phương Tây nọ, là một ngày không rời Linh Ngao đảo nửa bước. Một thoáng đã quá ba mươi năm, theo ta thấy, trọn một đời này, sợ rằng hắn không đi khỏi nổi cái Linh Ngao đảo nọ!” Ba tôn chủ Đông Đảo cùng biến sắc, Thi Nam Đình từ từ đứng dậy, đưa ánh mắt chiếu vào Lãnh Huyền: “Đông Đảo Thi Nam Đình, xin lĩnh giáo tài nghệ Lãnh công công!” Lãnh Huyền thở dài: “Thi tôn chủ, ta hằng nghe nói ông là một vì quân tử khiêm cung, Lãnh mỗ cả đời tuyệt đối không đả thương những bậc quân tử chân chính, nói thêm nữa, ông cùng ta tuyệt vô cừu oán, vậy khổ sở gì mà cứ nhất định đòi tranh nhau cái sinh tử hơn thua.” Thi Nam Đình thản nhiên nói: “Tại kì vị, mưu kì chính, bất đắc bất nhĩ ! (Ở vị thế này, làm cho đúng việc, không thể dung ngươi)” “Tốt lắm!”, Lãnh Huyền gật nhẹ cái đầu, “Nói khá là thẳng thắn!”, rồi lão dòm vào hai tôn chủ kia, “Hai ngươi thì sao, cùng xông lên một lượt hay chơi xa luân chiến?” Thi Nam Đình còn chưa lên tiếng, Minh Đấu đã cướp lời: “Chúng ta ba người cùng đến, tất nhiên là cùng nhập cuộc.” Lãnh Huyền nhíu mày: “Chỉ có ba người thôi sao? Trương Thiên Ý đâu, tại sao hắn không đến?” Ba người nhìn vào nhau, Dương Phong Lai cất cao giọng: “Có ăn nhặp gì tới Trương sư điệt đâu?” Lãnh Huyền nói: “Sao lại không ăn nhặp? Chuyện ta xuất cung, ngoài hắn, không một ai biết, ngoài hắn ra, còn có ai mà để tâm theo dõi ta? Hắn đã bị ta đánh trúng một đòn ‘Tảo Tuệ công’, e rằng nội thương chưa lành, cho nên đã gọi lũ tôn chủ bọn ngươi tìm đến ta gây chuyện, nếu dựa theo dự định của hắn, cả bốn tôn của Đông Đảo sẽ toàn quân xuất trận, chỉ tiếc cơ trời không như ý hắn, chỉ tụ tập được có ba thôi! Quy Kính không đến, phần thắng của bọn ngươi bị kém đi mất một nửa!” “Khoác lác không biết ngượng miệng!” Dương Phong Lai la lớn,”Không có Hoa sư muội, ta vẫn chặt rụng được cái đầu *** bầm của cẩu nô nhà ngươi xuống như thường!” Lãnh Huyền gật đầu: “Tốt lắm, trước hết, ta xin lĩnh giáo ‘Long Độn cao chiêu’!” Lão thò tay vào bọc. rút ra một cái roi ngựa dài ba thước, cán gỗ, roi da, trông chẳng có gì khác biệt các roi thông thường. Chỉ vì môn ‘Tảo Tuệ công’ của lão muốn phát huy uy lực, bó buộc cần một thứ binh khí mềm, lão xuất cung, không tiện mang theo phất trần, thuận tay vớ lấy một cái roi ngựa thay thế. Lãnh Huyền ngồi ngay ngắn bất động, nói: “Minh Đấu, trả lại cho ngươi cái chén trà!” Roi ngựa vung ra, quấn lấy cái chén Thố Hào, nghe soạt một tiếng, chén sứ bị một luồng lực đạo mạnh mẽ tống thẳng về phía Minh Đấu. Minh Đấu “Hừ” một tiếng, vươn tay phải tiếp lấy, chén Thố Hào đột nhiên chuyển hướng, nhắm vào Dương Phong Lai. Gã này giương tay áo bên trái lên, từ bên trong vọt ra dải lụa trắng, phất phới quét vào cái chén. Không ngờ cái chén kia bay đến, thế đi cực kỳ mãnh liệt, nó tách dải lụa ra, tiếp tục đập thẳng vào. Dương Phong Lai nhảy vọt về phía sau, tay áo bên phải mở bung, dải lụa trắng từ trong vọt ra, cuốn vào cái xà nhà, nhấc bổng thân mình Dương Phong Lai lên theo, lập tức cước bên trái y đạp ra, nghe “Phụp” một tiếng, đã đá trúng cái chén sứ, miệng y kêu to: “Đồ chó thiến nô bộc, trà còn chưa uống hết, sao đã vội trả chén về?” Ngọn cước đó vừa độc, vừa trí trá, mặc dù chén Thố Hào vẫn còn chứa đầy nội kình của Lãnh Huyền, nó bị đá vỡ nát tan, khiến vô số mảnh sứ bay hỗn loạn như một chùm lông chim bạch vũ, thi nhau nhắm phía Lãnh Huyền tấn công vào. Lãnh Huyền cũng chẳng ngoái đầu lại, lão quài ngược tay, vung cây roi vẽ lên một đoá tiên hoa, nghe đánh ‘soạt’ , tức thì các mảnh sứ đều bị quét sạch mất dạng. Dương Phong Lai thét lớn một tiếng, song cước liên hoàn đá ra, một trận gió theo đôi chân ập đến. Mặt Lãnh Huyền lộ một thoáng khinh thị, lão đưa đầu cây roi chĩa thẳng ra, loạt soạt mổ tới mổ lui không sai sẩy vào yếu huyệt ‘Côn Luân’ trên mắt cá chân trái của Dương Phong Lai, gã này, thân mình đang lơ lửng treo vào dải lụa quấn nơi xà nhà bên trên, đã vừa quẫy vừa xoay, mềm mại di chuyển tới vùng góc chết mé trái của Lãnh Huyền, gã vung chân trái xoay xoáy vào ngang đầu lão thái giám, chỉ muốn đá cho bắn tung bắn toé óc não của lão ra ngoài. Lãnh Huyền chuyển roi sang tay trái, đầu roi vẽ lên một vòng, hư hư thật thật, lại chỉ nhắm điểm vào huyệt ‘Trùng Dương’ nơi chân trái của ho Dương. Tuy chiêu thức đó của ngọn roi coi giản dị, bình hoà, gã này nhìn ra cái lợi hại bên trong, cú đá vừa đi được nửa đường đã rụt về, thân mình gã lại xoay chuyển trong khoảng không, chủ ý tìm góc chết khác. Lãnh Huyền vẫn ngồi thẳng lưng bất động, cây roi trong tay trái lượn lên lượn xuống, đầu roi chăm chăm điểm vào các yếu huyệt “Trùng Dương” ở chân trái, “Côn Luân” bên chân phải của Dương Phong Lai. Gã này xoay chuyển đã hai vòng, đá ra đã hai cước, tất cả đều đứt đoạn giưã đường. Lạc Chi Dương đứng một bên quan chiến, hắn hầu như nghẹt thở. Mọi cử chỉ của Lãnh Huyền đều diễn ra rõ rõ ràng ràng, trong khi Dương Phong Lai lại xoay nhoang nhoáng như hơn mười cái bóng trong không trung, làm người xem cảm thấy váng đầu hoa mắt. Dương Phong Lai liên tục công hãm, bất ngờ thay, lại không thể buộc lão thái giám đứng dậy, trong lòng gã nổi lên một cảm giác buồn bực khó tả, nhưng thấy Lãnh Huyền chỉ tập trung phần thân bên trên, hạ bàn lão bị bỏ trống, không phòng bị, gã bèn vung dải lụa từ trong tay áo bên trái ra, nghe ‘soạt’ một tiếng, đã quấn ngay vào ghế của Lãnh Huyền. Dương Phong Lai rút mạnh dải lụa về, cứ tưởng lão thái giám sẽ sử thiên cân trụy để đối phó, ai ngờ gã vừa huy động dải lụa, cái ghế bỗng nhanh như một tia chớp, bay vọt lên, khiến Dương Phong Lai thất kinh, thầm kêu bất diệu, ý niệm này vừa hiện trong óc, Lãnh Huyền chẳng hề quay đầu, đã quất ngược lên một roi đúng như in vào cái ghế, lập tức làm cho tốc độ bay của nó tăng gấp đôi, ghế này chứa đầy nội kình, nhắm Dương Phong Lai mà ập vào. Gã cuống quít xoay người bay về đàng sau, toàn thân vẽ một vòng cung to rộng, gã cảm giác cái ghế bay vù sát ngang mặt, nghe ‘rầm’ một cái, nó đập mạnh lên bức vách phiá sau, bức tường nọ hệt như làm bằng giấy bồi, đã bị phá rách toang một lỗ hổng cực lớn. Dương Phong Lai kinh tâm động phách, còn chưa kịp hoàn hồn, chợt nghe Minh Đấu la lớn: “Coi chừng!” , gã ngoái trông lại, kịp thấy Lãnh Huyền không một tiếng động đã tiến vô sát người gã, thì ra cái ghế chỉ là hư chiêu, lão thái giám cũng biết nó sẽ không gây thương tổn gì đến Dương Phong Lai, cho nên lão bám theo sát, định đánh lén một đòn sát thủ. Dương Phong Lai cuống quít vung tay một cái, gã thả lỏng dải lụa treo bên trên, thân mình chuồi nhanh ra đàng sau. Lãnh Huyền điểm nhẹ đầu mấy ngón chân vào mặt bàn, lão tung mình nhảy lên cao hơn một trượng, thế tiếp cận dĩ nhiên nhanh hơn. Dương Phong Lai xoát xoát đẩy ra năm chưởng, gót chân thì thụp tựa lưỡi rắn độc thè ra thụt vào, đã liên hoàn đá ra năm cước. Mười chiêu đó thần tốc sử ra, tưởng chừng đủ ngăn chặn mọi truy kích của tất cả anh hùng thiên hạ, cũng đã buộc lão thái giám tận dụng hết khả năng của mình để lui về mé sau. Lão tạm tránh mũi nhọn tấn công xong, cây roi trong tay đã lại nhẹ nhàng lượn lên, nó sống động tựa một con giun đất, đã ngoằn ngoèo co co duỗi duỗi chui xuyên qua quyền cước của Dương Phong Lai, đem đầu roi điểm vào chỗ ba phân bên dưới cuống họng gã nọ. Cây roi này tuy là vật tầm thường, nhưng vào tay lão thái giám, được nạp đầy kình khí “Tảo Tuệ công”, nó có thể đâm xuyên thủng thân cây, đập nát vụn đá tảng, mạnh mẽ không thua kém bất kỳ khí giới nào. Dương Phong Lai bó buộc phải rụt tay trái về, hai ngón trỏ và ngón giữa kẹp lại như cây kéo, gã nhắm chụp vào đầu roi của Lãnh Huyền. Nhưng phàm là cao thủ sử roi, tối kị để roi bị chụp bắt, một khi đầu roi bị khống chế, cây roi sẽ chẳng khác gì rồng bị cắt cụt đuôi, rắn bị chặt đứt đầu.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
 
Trở lên đầu trang