Cuộc di cư vĩ đại: Chiến tranh Đế quốc

03 : Chương 03

Người đăng: blak

.
Chúng ta chưa bao giờ tìm được bằng chứng vật lý nào về linh hồn, trong suốt hàng thế kỉ. Chúng ta cân đo xác chết nhưng không hề thấy khối lượng vật chất nào mất đi (trừ chất bài tiết và việc giãn cơ từ cái chết). Chúng ta quét cơ thể người ở mọi góc độ, tới tận từng phân tử, nhưng vẫn không tìm được lực lượng thiết yếu nào khiến con người là con người. Chúng ta có thể tạo ra sự sống, hoặc mang sự sống tới cho đồ vật, thứ thiếu vắng các biểu hiện của quá trình sống (có lẽ nhắc tới đám robot) . Đó có đồng nghĩa rằng linh hồn không đi kèm với sự sống? Và điều này có khiến bản thân tôi, một nhà khoa học, tin rằng linh hồn là không có thật chỉ vì chúng ta không tìm ra bằng chứng vật lý? Không, không hề. Thực tế nó khiến tôi càng tin vào tồn tại vô định hình này. Hãy nhớ rằng, thiếu bằng chứng không đồng nghĩa với việc bằng chứng không tồn tại. Những người được nuôi dưỡng trong tử cung nhân tạo, hoặc nhân bản vô tính, hoặc người được hồi sinh sau khi chết một lúc luôn thiếu đi cái gì đó. Nhưng thiếu cái gì? Đó không phải là câu hỏi. Chắc chắn nó là thứ mà chúng ta không thể đo lường, nhưng sự thiếu vắng của nó là thật. Và đó là lý do mà tôi tin vào linh hồn. Bài giảng bởi tiến sĩ Natusi Kenyata tại Đại học Y đế quốc, thủ đô, năm 612. *** “Và hôm nay ngươi mang loại sinh vật nào tới cho ta vậy, trưởng nhóm?” Đại đô đốc Miierrowanasa M’tinisasitow hỏi vọng xuống khán phòng từ ghế mình. Sĩ quan được hỏi đã thông báo rằng hắn có vài sinh vật ngoài hành tinh mới muốn được giới thiệu cho chỉ huy hạm đội chinh phục. Nhưng tên đô đốc hơi ngạc nhiên trước sự kỳ lạ của chủng tộc này. “Chúng được gọi là tộc Klang,” Tên chỉ huy một nhóm tàu tác chiến trong hạm đội trả lời rõ to và không thông qua máy thông dịch, khiến đám ngoài hành tinh lo lắng vì không hiểu họ đang nói gì. “Chúng có một vương quốc nhỏ nằm cách tiền tuyến chúng ta,” hắn nói tiếp. “Nắm giữ khoảng 200 hệ sao có dân cư sinh sống, cùng với hơn 10 chủng tộc nô lệ.” “À,” tên đô đốc ậm ừ, nhìn hai tên ngoài hành tinh đứng cạnh sĩ quan cấp dưới của hắn. Chúng có kích cỡ tương đương Ca’cada, hắn để ý, thân hình cơ bắp cao khoảng 2.5m, một được bao phủ bởi bộ lông màu nâu đỏ, tên còn lại được thì có long màu vàng. Chúng có móng guốc, trên đầu có sừng cao khoảng 0.5m. Khi một tên mở miệng nói chuyện, đô đốc chú ý tới hàm răng bằng phẳng của loài ăn cỏ. Một đàn gia súc mạnh mẽ, đô đốc nghĩ, nhìn về phía hai tên Klang đứng cạnh sĩ quan hạm đội cao 3m, lông xanh, có 6 chi (4 tay 2 chân) của hắn. Tuy không phải chưa từng nghe qua, nhưng hiếm khi tộc ăn cỏ có trí khôn. Khi mà chúng có xu hướng bạo lực hơn chủng tộc ăn thịt hoặc ăn tạp khác trên con đường tiến hóa tới sự khôn ngoan. Gia tài của chúng thường là các trận chiến bạo lực giữa các con đực nhằm chiếm lấy vị trí đầu đàn, trong khi giống cái lại tương đối dễ bảo. Công nghệ tiên tiến thường đồng nghĩa với cái kết của chủng tộc, khi bản năng của chúng hướng tới suy luận logic, và khi đó giống loài tuyệt diệt. Đô đốc nở nụ cười để lộ hàng răng nanh sắc bén, dấu hiệu cho thấy hắn là tộc ăn tạp. Hắn quan sát bộ lông thú lòe loẹt, cùng bộ đồ da che phủ phần ngực và háng, để lộ phần tay và bắp đùi trần trụi, trừ đôi giày dài tới gối. Tộc ca’cada có xu hướng ăn mặc như thủy thủ, với áo liền quần, màu sắc thay đổi tùy theo chức năng và cấp bậc. “Ta đoán ngươi mang chúng tới đây là có lí do chính đáng?” Đô đốc hỏi, nhìn tên trưởng nhóm với ánh mắt sắc lạnh. Ta đã ở trong hạm đội này hơn một ngàn năm, đô đốc nghĩ, phân nửa thời gian đó là chỉ huy chiến hạm, và phần lớn trường hợp tiếp xúc đầu tiên đều kết thúc trong bạo lực. “Chúng đã rình mò một tàu trinh sát của tôi,” trưởng nhóm nói, nhìn về phía hai vị khách. “Tôi tin chúng có ý định tấn công, khi mà tàu chúng lớn gấp hai tàu trinh sát, khoảng một triệu tấn. Nhưng chúng từ bỏ khi bắt gặp một trong các tàu thiết giáp hạm của ta.” “Và chiến hạm nặng 25 triệu tấn khiến chúng cư xử văn minh,” đô đốc cười to, ngó xuống hai tên Klang nhưng chúng vẫn trừng lại không e sợ. Có can đảm, hắn nghĩ, để ý tư thế đứng của chúng, nhưngkhông ngu ngốc. “Điều đó, cộng thêm cặp tuần dương hạm chặn đường rút lui của chúng,” chỉ huy biên đội đồng ý. “Chúng ta kiểm tra chiến hạm của chúng, không tiên tiến bằng, nhưng cũng không lạc hậu quá. Chúng kể tôi nghe rằng phần lớn công nghệ có được là từ chủng tộc khác. Cách đây 500 năm, chủng tộc chúng vẫn còn tranh cướp nhau trên đồng cỏ, vây thành bằng lính bộ với giáo mác.” “Và ai lại ngu tới mức đưa công nghệ tiên tiến cho chúng, với một quá khứ dã man như vậy?” Đô đốc nhíu mày hỏi. Chủng tộc của hắn sẽ chỉ nô dịch con mồi dễ dàng như vậy, chứ không phải nuôi nấng thành đối thủ. Hai cánh tay trái của hắn vươn lấy một ly rượu hallaso lạnh, được một nô lệ tộc simian phục vụ. Một nô lệ khác bưng ly rượu cho chỉ huy biên đội, trong khi bỏ qua hai vị khách. Không cần để chúng có ý nghĩ bản thân bình đẳng, đô đốc nghĩ, tiếp tục ngó xuống hai vị khách. “Đây là thuyền trưởng,” tên sĩ quan Ca’cadasi chỉ vào Klang với bộ lông đỏ, “nói rằng chúng là một chủng tộc hai chân nhỏ hơn, với ít lông trừ phần ở trên đầu, và thỉnh thoảng ở gương mặt.” Đại đô đốc Miierrowanasa M’tinisasitow híp mắt lại nhìn hai tên Klang, bàn tay bóp chặt lấy cái ghế và ly rượu. “Tên của chủng tộc này là gì?” Tên đô đốc hỏi nhẹ. “Hắn nói chúng gọi mình là nhân loại,” tay chỉ huy biên đội nói với nụ cười chiến thắng. Đô đốc nhảy dựng lên, ly trong tay vỡ nát khi hắn gào rú. Vẻ sợ hãi hiện lên trên gương mặt các chủng tộc nô lệ thấp hèn trong khán phòng, một số trốn bất cữ chỗ nào có thể trốn. Đám cận vệ tiến vào, kẻ giương súng, người giơ khiên và rút đao. Riêng hai tên Klang thì chỉ hơi e ngại một lúc, rồi thủ thế, sẵn sàng cho vụ tấn công mà chúng nghĩ sắp xảy ra. Tên đô đốc cười một hồi, tiếng gầm gừ trầm thấp phát ra từ ngực hắn. “Tạ ơn thánh thần,” hắn rống lên, bím tóc vun vẩy khi hắn ngửa mặt lên. “Tạ ơn thánh thần, chúng ta đã tìm ra lũ côn trùng đáng nguyền rủa.” Hắn nhìn xuống đám vệ binh đang lại gần mấy tên sĩ quan Klang, giơ tay ra hiệu ngừng lại. “Để họ yên,” hắn to giọng ra lệnh cho vệ binh. “Họ là bạn, người mang tin tức đáng mừng hôm nay. Hoàng đế chờ tin này suốt 2000 năm, nhưng giờ ta đã tìm ra chúng. Chủng tộc đã sát hại thái tử rất rất nhiều năm trước bằng một hành động đê hèn, khi làm nổ con tàu đến tiếp nhận sự nô dịch của chúng.” Đô đốc bước xuống ghế và đặt bàn tay to lớn lên vai thuyền trưởng Klang, lắc vai một cách nồng nhiệt. Khi chuyện đó xảy ra, hắn thậm chí còn chưa được sinh ra. Nhưng hắn đã số 1400 năm, nửa cuộc đời của chủng tộc Ca’cada, và giờ hắn có thể báo thù. “Những người này là bạn chúng ta,” tên đô đốc nói thông qua máy phiên dịch để mọi người có thể hiểu rõ. “Họ sẽ được đối xử như người Ca’cada, thỏa mãn mọi nhu cầu của họ. Vì họ đã mang đến tin tức về chủng tộc được chờ đợi rất lâu. Và hạm đội của ta sẽ có cơ hội nhận lệnh từ hoàng đế, chúng ta sẽ tàn sát chúng như hàng ngàn năm trước.” *** Hội đồng chính quyền triệu kiến ngài, thưa công tước ” trung sĩ của đế chế Elysium thông báo với giọng trầm ấm, chỉ về phía cánh cửa lớn đang mở. Cánh cửa lớn thật, đại công tước Horatio Alexanderopolis, nhìn các hình trang trí kì quặc bên trên. Ít ra thì nó to so với tiêu chuẩn của con người, nhưng với người kế thừa đế chế của cổ tộc thì có thể khác. Người đàn ông với mái tóc bạc trắng gật đầu chào vị trung sĩ tộc Avian cao gầy. Ông rời ghế và bước khỏi sảnh tới cánh cửa, tiếng giày vang lên khi chạm vào sàn đá của cung điện chính phủ. Hành lang và trần cao vút được thiết kế nhằm chấn nhiếp hoặc kinh sợ những kẻ tiếp cận hội đồng chấp chính. Nhưng với kinh nghiệm làm quan chức hơn 100 năm, 75 năm phục vụ ở đại sứ quán giúp ông lão 175 tuổi rất khó bị bất ngờ, và hoàn toàn không thể bị dọa nạt. Chúng ta là nền văn minh thống trị trong khu vực này, ông nghĩ khi bước đi, liếc nhìn vệ binh từ các chủng tộc khác nhau đứng xếp hàng dọc bức tường, trong áo giáp sáng choang. Với nền khoa học của bản thân, cộng thêm những gì học được từ các tộc này, chúng ta đã vượt xa họ. Giờ đây họ tới học trong các trường đại học của chúng ta, kinh ngạc các kỳ quan chúng ta xây dựng trên các hành tinh gần đây. Horatio gật đầu chào với trung sĩ lần nữa trước khi bước vào căn phòng của hội đồng chấp chính. Hội đồng bao gồm năm người khác nhau, bốn người đại diện cho bốn chủng tộc đông nhất trong đế chế, người còn lại đại diện cho một hội đồng thấp hơn gồm 17 chủng tộc còn lại. Fermi đã đúng, ngài đại sứ nghĩ khi ông cúi chào hội đồng vương quyền. Chỉ một số ít tộc trong thiên hà vào thời ông ấy có khả năng truyền tải thông điệp các hệ sao khác, di chuyển liên sao thì còn ít ỏi hơn nữa. Tộc Elysians vốn đã tuyệt chủng là tộc vị tha nhất trong số đó, giúp đỡ các tộc loài khác lạc hậu hơn, đưa họ vươn tới các vì sao, cứu rỗi họ khỏi họa diệt vong, điều xảy ra với hầu hết chủng tộc khi họ khám phá ra khoa học. Không may cho chúng ta, chủng tộc tiên tiến khác đã không mang lòng vị tha trong chúng (nhắc tới Ca’cada). “Nhân danh hoàng đế của tôi, xin kính chào các vị,” đại sứ già mở lời với hội đồng. “Hoàng đế Augustine đệ nhất gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới các vị láng giềng vĩ đại.” Lời chào được đón lấy với tiếng kêu chit chit, ríu rít, gầm gừ khi các thành viên trao đổi với nhau. Ông thấy tộc Lopemiam nhe hàng răng nanh ra như một lời chào, hành động há miệng của tộc bò sát Nockeman thì có thể mang bất cứ ý nghĩa gì. Chương trình phiên dịch của ông đã bị chặn bởi ba thành viên, nhưng mở cho hai thành viên còn lại. Ước gì mình không có khứu giác tốt như vậy, ông nghĩ khi chờ đợi câu trả lời. Lông của tộc Lopemian có mùi chua chua, và mình cá là tộc Jranok chưa bao giờ tắm. Nhưng ông phải công nhận rằng điểu tộc (avian) Brakakak tiết ra một hương thơm ngọt ngào, nó lấn át hết các mùi còn lại và rất tương xứng với bộ lông rực rỡ của loài sinh vật cao quý đó, chủng tộc lãnh đạo của đế chế. “Chúng tôi chào đón vị khách đáng kính từ đế quốc anh em,” tiếng líu lo của High Lord Grarakakak được phiên dịch sang tiếng anh, ngôn ngữ chính thức của thế giới loài người. “Chúng tôi rất vui vì ngài vẫn khỏe, và tiếp tục phục vụ như người phát ngôn của hoàng đế ngài.” “Tôi hi vọng có thể tiếp tục phụng sự thêm vài thập niên nữa,” Alexanderopolis trả lời với giọng líu lo của điểu tộc, thứ mà ông phải học vài chục năm để làm chủ nó, ít ra là ở mức tối đa mà con người làm được. “Nếu không phải ở vị trí cao quý này, thì ít nhất là các chức vụ nhỏ hơn mà đức vua của tôi trao cho.” Thành viên tộc Nockernan rít gì đó với High Lord, nhìn đại sứ nhân loại với ánh mắt ác liệt trong khi liếm cái lưỡi màu tím quanh bờ môi đầy lông của hắn. Ngươi sẽ không thích mùi vị đâu, Boijo, đại sứ nghĩ, biết rằng loài ăn thịt đó sẽ không tiêu hóa được protein từ nhân loại, cũng như quân đội Elysium không thể tiêu hóa được hạm đội đế quốc. “Lord Lisssiliss nói rằng chúng ta nên đi thẳng vào vấn đề,” thành viên điểu tộc trả lời với nụ cười tốt nhất mà nó thể hiện được bằng cái mỏ ngắn. “Chúng tôi có vài câu hỏi về ý định của Terra.” Và tôi tin rằng đại diện của các vị trên Jewel cũng đang có cùng câu hỏi, đại sứ nghĩ. Và sau đó các vị sẽ so sánh xem chúng tôi có nói dối hay không. “Xin cứ hỏi, thưa ngài,” ông cúi người đáp, cảm thấy hơi mỏi lưng bởi nghi thức lịch thiệp này. “Tôi sẽ trả lời nếu có thể.” “Chúng tôi không mong chờ bí mật từ ngài, đại công tước,” High Lord trả lời, cúi mình đáp lễ với sự mềm mại mà chỉ vũ công điêu luyện nhât của nhân loại mới làm được. “Nhưng mong ngài nói thật, trong khả năng cho phép.” Horatio mỉm cười gật đầu. High Lord đúng là một con quỷ xảo quyệt, thông thái trong ngoại giao. “Tôi sẽ trả lời tốt nhất có thể.” Thành viên tộc bò sát lại rít lên, và ngài đại sứ ước gì ông được cho phép phiên dịch nó thông qua implant, nhưng Nockernan vẫn tiếp tục ngăn quyền truy cập. “Chúng tôi nghe những báo cáo đáng quan ngại về việc hoàng đế ngài yêu cầu nghị viện tăng ngân sách, nhằm tăng cường khả năng cho quân đội,” High Lord nói, cặp mắt đỏ tươi nhìn thẳng vào đôi mắt xanh của đại sứ. “Chúng tôi tự hỏi điều này dự báo cho cái gì, khi mà các vị đã sở hữu lực lượng quân sự hùng mạnh và hiệu quả nhất ở khu vực này của thiên hà. Quân đội loài người đã chiến thắng mọi cuộc chiến. Và ngài có hai vương quốc nhân loại khác là bạn, vốn cũng có lượng chiến binh và khoa học gia tài năng như đế quốc.” Cho tới bây giờ, đại sứ nghĩ, nhìn chằm chằm vào High Lord, rồi quét qua bốn thành viên khác trong hội đồng. Điều đó có thể thay đổi bất cứ lúc nào, và chúng ta sẽ là kẻ thù một lần nữa. “Các ngài biết câu chuyện chúng tôi đã tới đây như thế nào,” đại sứ giải thích, chú ý tới biểu hiện hứng thú của cả hội đồng khi nghe lời phiên dịch từ ông. “Chúng tôi đã bị đế quốc khác đánh bại, phải trốn chạy. Kẻ mà không hề mang lòng vị tha như láng giềng tốt bụng của chúng tôi, tộc Elysians. Chúng hủy diệt thế giới và tộc nhân chúng tôi, trừ vài chục ngàn người trốn thoát tới nơi này.” “Nhưng đã qua hàng ngàn năm rồi,” tộc lưỡng cư Crocodilos càu nhàu. “Chắc chắn chúng đã diệt vọng trong thời gian đó rồi, loài hung bạo như vậy không thể tồn tại lâu được.” “Chúng tôi tin rằng họ đã mở rộng hơn 5000 năm khi tìm thấy loài người,” đại sứ kể, nhìn thẳng vào thành viên Crocodilos khi ông bước tới đối mặt với sinh vật này. “Theo tính toán của chúng tôi, nếu chúng tiếp tục mở rộng lãnh thổ thì chúng đang ở rất gần chúng ta rồi. Và hoàng đế hi vọng rằng chúng tôi sẵn sằng cho cuộc tái ngộ. Người sẽ không chịu từ bỏ quê nhà và trốn thoát tới các vì sao xa xôi để tránh cuộc thảm sát.” “Nó khiến một số trong chúng tôi lo lắng,” High Lord nói, chỉ tay về phía các thành viên còn lại trong hội động, “khi thấy láng giềng tăng cường quân sự ở mức chưa từng có, nhằm mục đích đồi đầu với kẻ địch mà chúng tôi chưa gặp bao giờ. Chúng tôi bắt đầu nghĩ về việc xâm lược, không phải bởi kẻ thù giấu mặt, mà từ siêu cường giữa chúng ta.” “Các ngài biết chúng tôi không phải kẻ xâm lược,” đại sứ nói với vẻ mặt chán ghét. “Nửa thiên niên kỉ đầu, chúng tôi phải mở rộng vì nhu cầu bắt buộc, và những ai bị đế quốc hấp thu đều được hưởng mọi quyền công dân. Chúng ta từng đánh nhau trong quá khứ và đánh bại các ngài. Tôi nhắc lại không phải để chế giễu, mà để nói cho rõ. Chúng tôi đã không lấy một hệ sao nào từ các ngài, bất cứ hệ sao nào mà các ngài đã chiếm giữ. Bởi vì chúng tôi muốn bạn bè hùng mạnh quanh mình, không phải kẻ thù giận dữ.” “Nhưng các người đã chiếm 12 hệ sao đông đúc từ Lasharans,” Lord Lisssiliss phản bác, lời phát biểu giờ đã phát qua máy phiên dịch. “Và các ngài đã chiếm giữ chúng hơn 10 năm rồi.” “Chúng tôi đã có thể chiếm nhiều hơn,” đại sứ đáp, bực tức nhìn thành viên hội đồng. Ông đã nói đi nói lại điểm này rất nhiều lần, và tên Nockernan chết tiệt chẳng chịu yên. Ngài đại sứ xoay lưng lại, bước đi một lúc, cảm giác ánh mắt tập trung vào mình. “Chúng tôi đã có thể chiếm cả vương quốc của lũ cuồng tín nếu chúng tôi muốn,” đại sứ nói, nhìn vào hội đồng. “Nếu chúng tôi muốn giết hàng trăm tỉ tên cuồng tín, dù đổi lại là hàng trăm triệu người hi sinh. Chúng tôi đã lấy những gì mình cần để sắp đặt lại giới tuyến, và đảm bảo an ninh cho đế quốc từ kẻ thù mà tôi chắc rằng, sẽ tấn công trong tương lai không xa. Đồng minh của chúng tôi, người Margravi, bị tấn công bởi Lasharans vào đầu cuộc chiến muốn chúng tôi hủy diệt các hành tinh Lasharan, và hủy diệt tất cả hệ sao gần biên giới vương quốc họ. Nhưng chúng tôi đã từ chối, và áp đặt trừng phạt với những tộc loài, tới giờ vẫn là bạn chúng tôi, vì họ đáng giá tình hữu nghị của chúng tôi. Bởi vì họ đã có hành động diệt chủng trên vài hành tinh của Lasharan giáp biên giới họ. “Nên không, thưa ngài,” ngài đại sứ nói, chuyển ánh mắt về phía Nockernon. “Chúng tôi không xin lỗi vì cái cách mà chúng tôi đã làm trong cuộc chiến, và càng không phải cho hành động chúng tôi làm sau đó.” Điều đó dẫn phát cuộc tranh cãi giữa các thành viên hội đồng. Alexanderopolis vẫn chưa đọc qua máy phiên dịch, nhưng ông đã tìm hiểu về các loài này đủ để biết ngôn ngữ cơ thể chúng. Và đại sứ có thể chắc rằng có ba thành viên hội đồng về phía mình. Dù không phải con số lý tưởng, nhưng vậy là đủ. Sau 15 phút tranh cãi, buổi gặp mặt kết thúc, với cảnh Nockerman và Jranok giận dữ rời đại sảnh, trong khi các thành viên khác ở lại để tiếp tục trò chuyện với ngài đại sứ bằng thái độ thân mật hơn. Một lúc sau, ngài đại sứ có buổi gặp riêng trong căn phòng tráng lệ của chủ tịch hội đồng, High Lord Grarakakak. Vị lãnh đạo điểu tộc ngồi trên ghế dành riêng cho chủng tộc của ông ta, tay lắc một chai Whiskey, trong khi ngài đại sứ cũng ngồi trên ghế được lắp riêng cho nhân loại, miệng nhấp một ngụm rượu cùng loại. “Tôi ước gì ngài đã nhẹ nhàng hơn với các thành viên khác trong hội đồng,” High Lord nói, nhấp một chút rượu từ ly mình. “À, chúng tôi cần giữ tình hữu nghị với đế quốc ngài, để ngài tiếp tục trao đổi loại mật hoa của thần này. “Đồng ý.” Đại sứ nói, nhìn vào cái bánh ngọt được làm từ mật Elysium. “Đổi lại chúng tôi được thứ sản phẩm tuyệt vời này.” “Vậy việc tăng cường quân sự là thế nào?” High Lord hỏi, nhìn qua ly rượu. “Các ngài sẽ tiếp tục mở rộng lãnh thổ?” “Tôi không nghĩ vậy,” ngài đại sứ lắc đầu. “Tôi ủng hộ hoàng đế trong phần lớn lĩnh vực, nhưng tôi nghĩ việc mở rộng sẽ khiến nhiều láng giềng hoảng sợ. Và ngài ấy cũng không có sự ủng hộ của nghị viện cho nó. Tôi e là phần đông giới quý tộc đều muốn bảo vệ túi tiền của mình.” “Tôi không tiếc khi nghe điều đó,” vị điểu tộc lắc đầu. “Tôi thích đế quốc của ngài, và cả vị hoàng đế. Nhưng tôi cảm thấy thoải mái khi biết hạm đội mà tất cả láng giềng đều e sợ sẽ không mở rộng.” “Và tôi cũng cảm thấy vậy khi biết nó làm kinh sợ họ,” ngài đại sứ trả lời với sinh vật ngoài hành tinh – mà ông xem là bạn trong suốt 20 năm hai người làm việc với nhau. “Tôi biết chúng tôi sẽ không dùng hạm đội cho các chiến dịch tấn công, và yếu tố sợ hãi giữ hòa bình cho chúng ta.” Và khiến các người giữ quân đội mạnh mẽ, cho thời điểm chúng tôi có thể cần tới chúng. “Chỉ trừ người Lasharans,” High Lord chép miệng, cười. “Không gì khiến đám cứng đầu cuồng tín đó sợ hãi. Tôi ngạc nhiên là các ngài không chở chúng từ các hành tinh đế quốc chiếm đóng về lại hành tinh mẹ của Lasharans.” “Bộ chỉ huy muốn vậy,” đại sứ thừa nhận, hít thở mùi rượu whiskey cùng với hương thơm tiết ra từ ngài hội đồng. “Nhưng vài người mềm yếu trong nghị viện nghĩ việc nhổ tận gốc đám đáng thương vừa bị đánh bại là sai trái. Nên họ được cho phép ở lại nếu muốn.” “Dĩ nhiên là chúng muốn rồi,” vị điểu tộc lại chép miệng lần nữa. “Để chúng có thể giữ mối quan hệ thân mật và đau đớn với nhân loại.” “Ngài thật hiểu rõ cả hai chủng tộc, Lord Grarakakak,” ngài đại sứ bật cười. “Còn dự án vĩ đại của các ngài thì sao?” Vị điểu tộc híp mắt lại hỏi. “Như đa số thứ mà chúng tôi xây dựng, hơi vượt dự toán một ít, chậm tiến độ một chút”, đại sứ trả lời. “Nhưng có vẻ như nó hoạt động, và chúng tôi rất mong có thể mở cổng khắp đế quốc. Một đột phá thật sự cho ngành vận tải và thương mại, điều chúng tôi sẵn lòng chia sẻ với bạn bè của mình.” “Và sự chia sẻ đó sẽ đi liền với lợi ích của đế quốc Terran, dĩ nhiên rồi,” vị điểu tộc sáng suốt nói. “Khi nhắc tới thương mại, cái gì lợi cho chúng tôi thì cũng có lợi cho các đối tác thương mại lớn nữa.” đại sứ nói, nghiêng mình về phía bạn mình. “Và tôi kể cho ngài nghe một điều mà không được nhắc tới nhiều trên tin tức.” Ngài chủ tịch hội đồng nghiêng người tới, để có thể nghe điều mà ông biết là nó sẽ tới. “Lúc nào ngài cũng có thể bắn nổ hoặc chỉ cần tắt cánh cổng, nếu ngài không thích thứ đi qua nó.” *** Sean đã kiệt sức, cảm thấy mệt mỏi như từ lúc bước chân lên chiến hạm Sergiov. Anh tưởng mình đã tìm ra vấn đề với cái bộ phát rắc rối, có gì đó không ổn với lớp trường điện từ cung cấp năng lượng cho nanites. Họ đã làm việc suốt 12 tiếng với các thiết bị đó, kiểm tra toàn bộ phần cứng, rồi nạp nanites mới vào, và chúng vẫn không hoạt động như ý. Lẽ ra chỉ là ca làm việc 10 tiếng, chừa đủ thời gian để anh ngủ nghỉ cho tới ca kế tiếp, vào 14 tiếng sau. Giờ anh phải tới sớm hai tiếng cùng với đội của mình, và làm suốt ngày, 14 tiếng hoặc hơn. Tên sĩ quan vũ khí khốn nạn chẳng chịu hiểu, hoàng tử nghĩ khi anh đi qua buồng của mình và thẳng tới khu thư giãn gần nhất, được dành cho các sĩ quan. Các ca trực trên tàu Sergiov thường kéo dài 10 tiếng, chồng chéo nhau trong suốt ngày 24 giờ của tàu. Anh tự hỏi làm sao thủy thủ chịu được những tháng ngày trong hải quân biển xa xưa, khi họ được 8 giờ nghỉ sau mỗi ca trực 4 tiếng, nhưng vẫn phải làm các công việc thường lệ, và rất may mắn nếu họ được ngủ 4 tiếng. Dĩ nhiên các tình huống báo động, và các nhiệm vụ khác có thể làm xáo trộn thời gian biểu, nhưng đó là chuyện bình thường trong hạm đội. Cánh cửa trượt mở khi Sean tới gần, để anh nhìn rõ căn phòng đông đúc. Nói đông vì diện tích căn phòng không lớn lắm, khoảng 30 sĩ quan ngồi kín gần nửa số ghế và chiếm hết các bàn bi da. Căn phòng này được gọi là Ten – Forward vì lí do bí ẩn nào đó và không ai biết. Mọi chiến hạm đều có một phòng có tên như vậy, dù các căn phòng không được đánh số theo cách đó. Chỉ là vài truyền thống khó hiểu từ quá khứ xa xưa, theo như anh hiểu. “Điện hạ,” một tiếng hô làm Sean nao nao. Anh sớm biết các sĩ quan khác sẽ châm chọc về xuất thân hoàng gia của mình, và tốt nhât nên làm quen với nó. Nếu không thì họ sẽ làm mọi chuyện tồi tệ hơn cho anh, chỉ để tạm giải thoát khỏi sự căng thẳng từ gánh nặng nhiệm vụ trên vai. “Sao rồi, bá tước,” Sean vẫy tay chào anh trung úy trẻ phụ trách khẩu đội A. Jasper Bettencourt cũng không phải bá tước, chỉ là đứa con trai trưởng của một vị bá tước, người có thể sống thêm được 150 năm nữa. Ngày nào đó anh có lẽ sẽ được thừa hưởng tước vị, thực tế thì rất có khả năng, nhưng không có gì là chắc chắn với khoảng thời gian dài như vậy. Jasper bật cười, ra hiệu về phía cái ghế bên cạnh, nơi anh đang ngồi cùng với hai nữ sĩ quan khác. Có lẽ mình sẽ gặp may đêm nay, Sean mong, ngồi xuống ghế và mỉm cười chào cô thiếu úy tóc vàng trẻ trung bên cạnh. “Đây là thiếu úy Connie Caldwell,” Jasper giới thiệu, hướng về phía cô gái tóc vàng nhỏ nhắn. “Và đây là trung úy Constance Salvatore,” anh nói, để tay lên bàn tay cô sĩ quan. Cô đỏ mặt nhìn rất dễ thương, hai má ửng hồng trái ngược với làn da trắng với mái tóc đen mượt. “Cậu muốn uống gì không?” “Tất nhiên,” Sean đáp, vẫy tay gọi bartender, người làm việc bán thời gian ở đây khi hết ca trực. “Rượu rum và chanh,” anh gọi. “Sao cậu uống được cái thứ dở tệ đó,” Bettencourt nhếch miệng cười. “Khi nào thì cậu mới đụng tới thức uống thực thụ?” “Như thứ rượu Scotch chết tiệt đó,” Sean mắng, xụ mặt lại. Anh chưa bao giờ thích vị của loại đồ uống đó, thứ được giới quý tộc và thương gia giàu có mê mẩn. “Em thích rượu rum và chanh,” thiếu úy tóc vàng nói. “Bình dân,” Bettencourt cau mày nhận xét. Cô thiếu úy le lưỡi chọc chàng quý tộc trẻ tuổi, khiến Sean và Salvatore bật cười. “Nhìn hải quân đang biến thành cái gì này,” Jasper than, một tay ôm lấy tim mình. “Khi người ta có thể thiếu tốn trọng với bề trên của họ tới như vậy.” “Bề trên nào,” cô thiếu úy phản bác, trừng mắt nhìn sĩ quan cấp trên. “Em cho anh 20 điểm IQ.” Đây là điều mình thích ở hải quân, Sean nghĩ, vui cười cùng mọi người trong khi cầm lấy ly rượu. Không phân biệt địa vị xã hội trừ cấp bậc, và thậm chí họ cũng không quá khắc nghiệt về nó. Sean ngẫm lại về điều anh được dạy, quá khác biệt so với con trai công tước đang ngồi chung với mình. Lúc nào cũng dưới ánh mắt săm soi của cận vệ, thậm chí còn không được hồn nhiên vui đùa phần lớn thời gian. Thường anh chỉ chơi một mình, với con cái của giới quý tộc mà anh không thích, không kiếm được người bạn nào. Cảnh sắc ở khu nghỉ dưỡng thì rất đẹp, trượt tuyết, lặn biển, leo núi ở những nơi mà tầng lớp bình dân còn không được phép chụp hình, vì e sợ tên ngốc nào đó lên kế hoạch ám sát. “Giới tinh anh,” Jasper nói móc, “Giao cho tầng lớp bình dân, và các người sẽ gom góp mọi của cải, và để giới quý tộc tội nghiệp chúng ta, à, nghèo khó.” Cô thiếu úy lại le lưỡi, sau đó quay sang Sean, nhìn anh bằng đôi mắt xanh đáng yêu. “Anh thực sự là một vị hoàng tử?” “Thật đó, em gái,” Jasper trả lời, vỗ lên cánh tay của Sean. “Em đang ngồi cùng với người một ngày nào đó sẽ trở thành hoàng đế.” “Rất khó,” Sean nói, cảm thấy hơi mắc cỡ. “Tôi chỉ đứng hàng thứ ba trong danh sách thừa kế.” “Cậu chẳng biết trước được điều gì sẽ xảy ra,” Jasper cười. “Đứa em của tôi lúc nào cũng bảo tôi sẽ chết ngoài nay, trên tiền tuyến. Nhưng tôi nghĩ đó chỉ là mong ước viễn vông mà thôi. Giờ say sưa một trận thế nào?” “Thế nào ư,” Sean nói, vẫy tay gọi người pha chế. “Cậu biết không,” anh nhìn Jasper, “trong lực lượng hải quân xưa, ý tôi là hải quân biển, thủy thủ bị nghiêm cấm say rượu trên tàu chiến.” “Sao lại không chứ, ông cụ con,” Jasper vặn, giọng hơi rè rè. “Vì thủy thủ say rượu khá là vô dụng khi gặp tình huống,” Connie mỉm cười. “Em biết vậy từ lớp lịch sử trong trường đại học.” “Em không vào học viện?” Sean hỏi, nhìn cô gái xinh đẹp nhỏ nhắn. Cô lắc đầu, “Không, dù đó là phân viện vệ tinh.” “Em là một con mọt sách về khoa học,” cô nói, nhìn vào đôi mắt anh và khiến anh thấy hồi hộp. “Cha em hướng em theo nghề nghiệp ở lĩnh vực vật lý, nhưng em không cưỡng lại được trường sĩ quan dự bị, và cơ hội làm việc với lò phản ứng phản vật chất (gọi tắt là MAM).” “Vậy em là kĩ sư?” Sean hỏi, nhìn cô đầy tôn trọng. Sĩ quan kĩ sư được coi là con mọt sách trong hạm đội, nhưng họ cũng theo đuổi một công việc rất mệt nhọc và nguy hiểm. Lò phản ứng MAM có thể bị tống ra ngoài không gian để cứu lấy con tàu, thỉnh thoảng mang theo đội kĩ sư vào cõi vĩnh hằng. “Đúng vậy,” cô nói với giọng đầy tự hào. “Nhưng em muốn nghe thêm về anh. Lớn lên trong một gia đình hoàng gia thì ra sao?” Cô đặt tay lên cánh tay Sean khi dứt lời. Đúng là may mắn, hoàng tử nghĩ, nhìn vào đôi mắt xanh to tròn đó. *** Hai mặt trời song sinh dần vươn qua ngọn đồi thấp, ngọn gió từ bình minh thổi qua đám đông tập trung bên dưới. Mặt trời to tròn màu cam, cùng với người anh em sao lùn trắng nhỏ hơn ngó xuống buổi tụ họp hiếm có trong nhiều năm của các tín đồ. Nửa triệu sinh linh quỳ gối trên các tấm thảm trong thung lung, trong khi hàng trăm ngàn người khác ngồi chờ bên lưng chừng đồi. Lời nguyện cầu của hàng triệu sinh linh vang vọng cả ngọn đồi. Đại giáo chủ Mallakan đứng trên bục cao của ngôi đền Jakarja Lashana (Nhà thờ của vị thần báo thù), quan sát các tín đồ. Hắn biết thông điệp của mình sẽ không chỉ giới hạn ở đây, mà còn vươn tới hàng tỉ người thờ phụng khác trên hành tinh. Và nó sẽ được chuyển tiếp xuyên suốt Lasharan Hegemony, lãnh thổ của cá nhân hắn. Vị lãnh đạo tôn giáo quét qua đám đông một lúc, nhận ra những gương mặt quen thuộc ở hàng ghế trước, những người đã theo hắn trong suốt cuộc nổi dậy đẫm máu của giáo tòa. Có áo choàng của các giáo sĩ, đồng phục làm việc của các công nhân, xen lẫn quân phục của quân nhân. Tất cả đều mang hình dáng như con người, cao 2.5 mét, với hai con mắt to, và bốn con mắt chuyển động nhỏ tập trung vào đài cao. Cũng có một số ít cư dân lùn, mập từ các hành tinh có trọng lực nặng, ngoài số đông dân bản địa. Ánh mặt trời phản chiếu lấp lánh quai lớp áo da cứng màu đỏ. Mallakan nhăn mặt khi cơn đau truyền từ bàn chân lên hông phải. Hắn cầu nguyện với vị thần của sự diệt vong, Mcirrala, rằng hắn sẽ sống đủ lâu để chứng kiến loài người bị đánh bại, và thêm rằng hắn sẽ vui vẻ nếu được góp phần vào quá trình đó. Nhưng ở tuổi 95, hắn biết mình chẳng còn sống được quá một thập niên nữa, do sự cấm đoán nghiêm khắc của giáo tòa với khoa học kéo dài tuổi thọ từ lũ ngoại đạo. “Anh em của ta,” hắn bắt đầu, các loa ẩn phóng to giọng hắn khắp các ngọn đồi, thung lũng của vùng đất thánh. Nơi nhà tiên tri đầu tiên đã nghe thấy lời của chúa, và khởi đầu tôn giáo. “Chúng ta có mặt tại đây, để ta có thể truyền ý chỉ của chúa tới mọi người.” Tiếng nguyện cầu vang lên khi hắn giơ bàn tay bảy ngón lên trời, ra hiệu giữ im lặng. Hàng triệu cánh tay đưa lên trời như lời khẩn cầu với chúa, tiếng cầu nguyện giảm xuống ở mức thì thầm, và sau đó im lặng hoàn toàn. “Loài người,” hắn tiếp tục, nhìn về phía đám đông, “với tà thần và dị giáo của chúng.” Đám đông hò hét, đa số vung vẩy nắm đấm lên trời, trong khi vài ngàn người nhún nhảy điên loạn. “Và con đường dị giáo của chúng,” hắn tiếp tục, cất cao giọng, “Một chủng tộc thậm chí còn không thờ phụng một vị thần duy nhất như đồng loại chúng, không thể đồng ý cái gì là thần thánh. Một chủng tộc xứng đáng với cái chết, sự diệt vọng và chìm vào lịch sử của vũ trụ, như một bài học cho những kẻ bội giáo.” Tiếng gào rú của đám đông tăng lên một cấp độ mới. Nhiều kẻ sẽ sẵn lòng tử vì đạo, đại giáo chủ nghĩ. Và họ sẽ mang theo nhiều kẻ dị giáo tới địa ngục, nơi họ được đưa lên thiên đường, trong khi dị giáo đồ bị thiêu đốt mãi mãi. “Vài người sẽ nói dị giáo đồ quá mạnh về khoa học, kĩ thuật để chúng ta có thể đánh bại chúng.” “Không,” đám đông hò hét. “Không. Không.” “Nhưng so với chúa trời, sức mạnh của khoa học kĩ thuật có là gì? So với ý chí của tín đồ, sự kỷ luật của kẻ thù có là gì?” Sự kỷ luật mà ta mong là mình có thể truyền vào những tín đồ, hắn cau có nghĩ khi thung lũng run động vì hàng triệu tiếng hô vang. Sự kỷ luật của chúng là thứ giúp thắng các trận chiến, cuộc chiến này tới cuộc chiến khác. Các tín đồ sẵn lòng tử vì đạo, nhưng họ không đủ kiên nhẫn để làm theo lệnh, hoặc theo lãnh đạo. “Kẻ dị giáo đang chơi trò nguy hiểm với an hem chúng ta trên hành tinh chúng chiếm giữ,” hắn nói khi đám đông câm lặng. “Những kẻ dị giáo hèn nhát, giữ con cháu tín đồ làm con tin trước họng pháo của quân đội chúng. Chúng tẩy não trẻ em với niềm tin vào tà thần, nguyển rủa linh hồn đứa trẻ của các tín đồ với sự trầm luân vĩnh viễn.” Đám đông gào thét giận dữ, huơ nắm đấm trên trời, vài kẻ rút đao khỏi vỏ và giơ lên cao, không màng tới an toàn của những kẻ đứng gần đó. “Liệu chúng ta có cho phép điều này xảy ra với linh hồn của anh em chúng ta?” hắn gào lên, giơ cả hai nắm đấm lên trời. “Không,” đám đông hô vang. “Không.” “Không bao giờ nữa.” giáo sĩ hô to. “Không bao giờ nữa.” “Không.” “Không. Không.” Mallakan nở nụ cười hài lòng, để lộ hàm răng sắc nhọn và xếp tay lại nguyện cầu. “Cầu chúa ở cạnh chúng ta, anh chị em của ta,” hắn cầu nguyện, trong khi nhìn về phía những tín đồ tử vì đạo tương lai, sẵn sàng săn lùng và hủy diệt con người. Sẽ sớm thôi, hắn nghĩ, hình ảnh xác chết của loài người hiển hiện trong đầu. Sớm thôi. *** Tàu vận tải vũ trang lượn quanh nhà thờ, pháo thủ ở cửa quét qua bìa rừng cho dù lực lượng mặt đất đảm bảo không có sự hiện diện của kẻ địch trong khu vực. Máy nén không gian trên vỏ tàu ngưng hoạt động, thay vào đó là tiếng hú của các động cơ cánh quạt, làm thay công việc giữ cho con tàu 12m lơ lửng giữa trời. Khoảng nửa tá con tàu như nó hạ cánh xuống bãi đáp, trong khi bốn chiến đấu cơ chia làm hai cặp lượn quanh, tìm kiếm con mồi. Một phi đội vận tải cơ bay về phía bắc hướng tới các cột khói, đánh dấu vị trí pháo binh đang bắn phá những kẻ sống sót từ đơn vị đột kích của địch, đang trốn chạy vào khu rừng nhiệt đới rậm rạp. Một quả cầu lửa bốc lên ở bên dưới chiến đấu cơ, tiếp tục gây áp lực lên du kích quân. Thiếu tá nhìn màn hình điều khiển từ máy bay chỉ huy, truyền hình ảnh từ một sĩ quan dưới quyền đang truy kích kẻ địch vào khu rừng nhiệt đới. Anh chuyển sự chú ý sang bãi đáp bên dưới, nơi hai trung đội bộ binh nhẹ đang di chuyển khỏi sáu tàu vận tải. Từ dấu hiệu cuộc giao tranh trước khi họ tới, trung đội bảo vệ bãi đáp đã làm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Xác Lasharans mặc bộ pajama đen chất đống gần hàng rào, đổi lại, kế bên hơn 20 xác cũng lính vũ trang bị bất ngờ bởi vụ tấn công. Dù vậy, bộ binh đế quốc đã chiến đấu ngoan cường đúng với truyền thống của mình, kiềm chân địch cho tới khi viện quân đến. Và họ không phải là lính đơn vị mình, anh nghĩ, tuy nhiệm vụ này nằm trong khu vực mà sư đoàn bộ binh 988th phụ trách. Binh lính từ một tiểu đoàn độc lập được giao nhiệm vụ bảo vệ các công trình này, đơn vị của anh thì được giao nhiệm vụ tiếp ứng. Anh nhìn xuống bãi đáp từ cửa sổ bên cạnh, để ý khoảng sáu bộ giáp lớn hơn đang dọn dẹp, ba trong số đó đang kéo xác kẻ địch. Không may cho người anh em da đỏ cao to của chúng ta, một đại đội bộ binh nặng đang diễn tập ở khu vực gần đây, anh nghĩ, nhìn binh lính trong bộ giáp nặng hàng tấn bay lướt mặt đất nhờ vào máy nén không gian gắn trên giáp. Đó là nơi mình cần tới. Quân du kích chẳng có thứ gì để gây nguy hiểm cho binh lính trong bộ giáp đó. Nhưng chúng có vũ khí ở cuộc phục kích tuần rồi, anh nghiêm túc, nhớ tới chiến dịch của quân du kích khiến hơn phân nửa trung đội binh lính được trang bị giáp và vũ khí nặng hi sinh. Có lẽ giáp hạng trung là biện pháp tốt nhất, anh nghĩ, mường tượng bộ giáp nửa tấn vẫn tốt hơn trang bị nặng 150kg mà đơn vị anh sử dụng. Chết tiệt, nếu chúng thật sự muốn lấy mạng mình, thì có bao nhiêu giáp cũng không đủ. “Đưa chúng ta xuống bãi đất,” anh ra lệnh cho phi công, sau đó kết nối liên lạc với binh lính dưới đất. “Tôi muốn nói chuyện với chỉ huy đơn vị bộ binh hạng nặng ngay khi hạ cánh,” anh nói qua bộ đàm khi máy bay rung nhẹ do hạ cánh. Baggett trượt cánh cửa qua một bên và nhảy xuống, mắt quét xung quanh với bản năng của một người lính dày dạn kinh nghiệm. Mặt đất chấn động dưới chân, anh nhìn về phía nam và thấy ba xe tăng hạng trung, mỗi chiếc nặng 500 tấn gồm giáp và vũ khí hạng nặng đang di chuyển dọc con đường. “Đại úy Miersham có mặt, thưa sếp,” giọng nữ vang lên từ bộ giáp nặng đáp trước mặt thiếu tá. Baggett ngước nhìn con quái vật hình dáng như robot. Các loại vũ khí được tích hợp trên vai, cổ tay của cỗ máy cao 3.5m khiến anh chú ý. Vũ khí gắn trên cổ tay bộ giáp chỉ huy còn to hơn thứ mà lính hỏa lực hạng nặng của anh sở hữu. Vỏ giáp có thể chịu đựng sức va chạm, điều sẽ xé xác anh và lính bộ binh nhẹ khắp mặt đất. “Cảm ơn vì đã tới giải cứu những binh lính này,” Baggett nói, đưa tay chào nghiêm. “Lũ da đỏ thì không may mắn như vậy.” “Vâng, thưa sếp,” nữ sĩ quan cười qua bộ đàm. “Khoảng 200 kẻ địch tấn công trại vào lúc bình minh,” sĩ quan nói, chuyển qua giọng báo cáo: “Phóng đạn cối vào căn cứ, trong khi bắn tấp cập từ bìa rừng. May cho chúng ta, một lính canh là pháo thủ hỏa lực nặng, đã đặt một pháo laser quét ngang bãi đất, tiêu diệt khoảng 20 tên địch. Chúng tôi tìm thấy mảnh xác chúng ngoài cánh đồng, cùng với 40 – 50 tên bị dính mìn định hướng.” “Và cô tới, dọn sạch đám còn lại,” Baggett. “Trước khi chúng tôi đưa một đơn vị phản ứng tới đây.” “Thật sự thì đó là điều tốt, thưa sếp,” sĩ quan nói, xoay đầu bộ giáp nhìn về phía cánh đồng, nơi bộ binh nặng vẫn đang kéo thêm xác quân du kích vào. “Chúng có đặt vũ khí phòng không, chờ phục kích máy bay của sếp. Tôi mất hai lính bởi vũ khí hạng nặng và bệ phóng trước khi tiêu diệt chúng.” “Tôi rất tiếc vì thương vong của cô,” thiếu tá an ủi, nghĩ về những chàng trai cô gái mà tiểu đoàn anh đã mất trong suốt hai tuần qua. “Và tôi rất vui vì cô đã hạ chúng giúp chúng tôi. Nhà truyền giáo vẫn còn sống chứ?” “Vâng thưa sếp,” đại úy nói, chỉ về phía công trình bằng nhựa plastic lớn. “Người cùng giáo dân trốn trong nhà thờ. Công trình đủ kiên cố để ngăn đạn súng bộ binh và cối hạng nhẹ, và kẻ địch không có vũ khí nặng nào trong tầm để bắn vào nó.” “Tôi nghĩ mình cần nói chuyện với ông ấy, hoặc cô ta nếu tôi làm báo cáo đầy đủ về vụ thảm sát này,” thiếu tá nói, xoay người lại và đi về phía nhà thờ. “Làm tốt lắm, đại úy. Tôi sẽ gửi báo cáo tốt tới chỉ huy của cô.” “Cảm ơn, sếp,” sĩ quan trả lời, nhảy lên không vê đơn vị của cô. Một người đàn ông vừa tầm, khoảng 120 tuổi bước ra từ nhà thờ khi thiếu tá đang tiến về nó. Ông ta mặc đồ lao động, đeo cổ áo tu sĩ, mồ hôi rịn từ trán dưới cái nắng buổi trưa. Hệ thống môi trường của bộ giáp đang làm việc rất tốt, Bagget nghĩ khi anh dừng bước trước người đàn ông. Anh cảm thấy rất thoải mái trong thời tiết cận xích đạo, nhờ công nghệ từ bộ giáp chiến đấu hạng nhẹ. “Anh là sĩ quan chỉ huy của đám người này?” Linh mục hỏi, liếc nhìn viên thiếu tá. “Đúng, thưa Cha,” người lính bộ binh trả lời, kéo mặt kính gắn trên nón lên. “Thiếu tá Samuel Baggett, tiểu đoàn bộ binh 789th.” “Tôi là linh mục Michael O’Rourk,” người đàn ông nói, cầm khăn lau mồ hôi trên bộ lông mày màu đỏ. “Nhà thờ công giáo đế quốc. Và tôi muốn gửi một báo cáo tới cấp trên của anh, về công việc bảo vệ tệ hại mà của các anh ở đây. Tôi mất chín giáo dân trong vụ tấn công này. Anh giải thích thế nào, thiếu tá?” “Những người lính này không thuộc đơn vị của tôi,” Baggett nói, nhìn về phía thi thể binh lính cách đó 40m. “Nhưng đã có 25 binh lính thuộc trung đội được giao nhiệm vụ bảo vệ công trình này hi sinh,” thiếu tá nói, cố nén cơn giận. “Và đơn vị bộ binh nặng tới tiếp cứu cũng có người hi sinh nữa.” “À, ừ,” linh mục nói, lại lau mồ hôi trán khi giáo dân đầu tiên rời khỏi nhà thờ. Baggett nhìn về phía sinh linh cao, với làn da đỏ, với cặp mắt to tròn, và bốn con mắt nhỏ hơn nhìn quanh sân nhà thờ. “Anh là người lính,” mục sư nói tiếp. “Anh được trả lương để gánh chịu rủi ro. Ta cũng như vậy. Ta đặt niềm tin vào Chúa và làm công việc mà ta được giao. Ta chết hay sống, đều nằm trong tay của Chúa, nhưng giáo dân của ta thì không. Ta nghĩ mình cuối cùng đã tới gần được họ, và đang xua đuổi lòng thù ghét ra khỏi tâm trí họ. Nhưng họ cần sự bảo vệ của các anh để sống sót, để họ có thể lớn lên trong đức tin.” “Tôi hiểu, thưa Cha,” sĩ quan giải thích. “Nhưng lực lượng của chúng tôi rất mỏng trong khu vực này. Chúng tôi chỉ có khả năng phân một trung đội cho mỗi nhiệm vụ, nếu muốn giữ đủ lực lượng cho lực lượng phản ứng và các chiến dịch khác.” “Ta hiểu, con trai.” Linh mục nói, quay đầu nhìn các con chiên đang loanh quanh sân nhà thờ, hoặc đứng nhìn các thi thể. “Chỉ là quá khó khăn, khi thấy ánh sáng của Chúa hiện lên trong mắt dân ngoại đạo. Để rồi sau đó chứng kiến chúng chết, bị phanh thây ngoài nhà thờ, nơi những người khác có thể thấy được. Sau khi tôi đã nói với tất cả họ rằng họ sẽ được bảo vệ.” “Chúng tôi sẽ điều thêm một trung đội sớm nhất có thể,” Baggett nói, cảm thấy mồ hôi rỉ trên trán do không có mặt kính che phủ. “Và tôi sẽ lắp đặt thêm cảm biến và mìn quanh khu vực, bất cứ thứ gì có thể gia cố quanh nhà thờ. Và tôi sẽ mang bất kì báo cáo nào mà Cha muốn gửi cho cấp trên của tôi.” “Không cần báo cáo đâu, con trai,” linh mục nói, mắt ông nhìn quanh các thi thể của binh lính đế quốc, hi sinh để bảo vệ nhà thờ. “Ta sẽ cầu chúa phù hộ những người cống hiến mạng sống cho chúng ta. Và cầu nguyện cho những linh hồn tội lỗi đã giết họ. Con muốn lời chúc phúc của ta không, con trai?” “Vâng, thưa Cha.” Sĩ quan nói, quỵ một gối xuống. “Nếu Cha thấy phù hợp khi chúc phúc cho một thành viên của nhà thờ giám mục ( Episcopal Church).” “Không sao, thiếu tá,” linh mục mỉm cười, giơ tay lên để làm lễ chúc phúc. “Chúng ta luôn phạm lỗi lầm trong cuộc đời. Có lẽ một ngày con sẽ gia nhập vào đức tin thật sự. Cho tới khi đó, nhân danh tùy tùng của Chúa, cầu Người ban phước và phù hộ con, bây giờ và mãi mãi.” Bây giờ và mãi mãi, Baggett nghĩ, ngước nhìn mặt trời – ngôi sao bậc F4 trong khi kéo mặt kính xuống để bảo vệ mắt. Nhưng hi vọng là không phải trên quả cầu nóng bỏng này. Trừ phi mình có thể coi thời gian ở đây như phục vụ dưới địa ngục.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
 
Trở lên đầu trang