[Dịch] Bộ Bộ Sinh Liên

Chương 196 : Rượu mạnh đã đến, mỹ nhân ở đâu

Người đăng: 

Trước mắt là một Đường đại tiểu thư e lệ, kiều diễm, hàm răng trắng, môi đỏ mọng, mắt long lanh như nước mùa thu. Dương Hạo không khỏi si mê. Mấy ngày nay Đường Diễm Diễm đem theo quân đến Lô Lĩnh Châu, lúc hắn còn đang ngây người ra, thì Bích Túc chạy vào, lớn tiếng kêu: “Phủ đài đại nhân, binh sĩ của Mộc Ân bao vây Đông Dương Trại, bọn chúng sắp bị chém đầu rồi”. “Cái gì?” Dương Hạo hoan hỉ, đứng hẳn dậy nói: “Được, haha, có thể ngay lập tức tập trung lực lượng đánh rồi. Mau, mau đi chuẩn bị vài thứ lễ vật cho ta, chúng ta phải nhanh chóng lên đường đi Đông Dương Trại”. Dương Hạo như trút được gánh nặng, quay sang Đường Diễm Diễm nói: “Đường cô nương, Dương mỗ phải đi xem tình hình quân sự, bàn cờ này…” Đường Diễm Diễm đang cầm con tượng chuẩn bị đánh, nghe thấy những lời này của Dương Hạo, vội nói: “Công sự quan trọng hơn, mời đại nhân”. Dương Hạo chắp tay cáo biệt, vội đi theo Bích Túc ra ngoài, đi đến cửa thì quay đầu nhìn lại, thấy Đường Diễm Diễm đang cười với hắn, lồng ngực hắn tim đập thình thịch, hắn tiếp tục đi, không quay đầu lại nữa. Sau khi hắn rời đi, Đường Diễm Diễm quay người lại đến bên giường, sờ trong đệm lấy ra một chiếc bình, ôm vào ngực và nghĩ: “Trận này đánh xong. Được. Đợi chàng quay về, ta sẽ đập vớ bình này…Chiết Tử Du…ha ha”. Đang vui mừng, đột nhiên nhớ tới cảnh nam nữ, nàng nhớ đến cuốn “Tố nữ kinh”, quyển sách này nói về tình cảm trai gái, nghĩ đến sắp có chuyện tốt xảy ra, Đường Diễm Diễm mơ màng như đang trong giấc mộng, chân như đang dẫm lên mây vậy. *** Đông Dương Trại là nơi dừng chân của Đông Dương Thị người Khương Hoành Sơn, nó rộng khoảng mười dặm, tộc trại có tám trăm chiếc, không được coi là lớn so với bộ lạc người Khương Hoành Sơn, nhưng thế lực lại rất mạnh, không thể coi khinh. Trong trận chiến giữa các bộ lạc, Đông Dương Thị vẫn ít chịu thiệt nhất, không ai dám đưa đại quân đánh trực tiếp Đông Dương Thị để tiêu diệt bộ lạc có một đội quân dũng mãnh có hơn một nghìn người, trong mấy trăm bộ lạc người Khương Hoành Sơn dù lớn dù nhỏ, cũng chỉ có Dã Ly Thị mới chịu nổi sự mất mát như vậy. Đông Dương Thị ngoài có tám trăm lều ra, ở đây còn có vô số dân tị nạn từ các nơi chạy đến, có nhiều dũng sĩ trong đó, dễ dàng nhặt ra khoảng nghìn dũng sĩ. Với tình hình như vậy, thủ lĩnh của Đông Dương Thị Nhật Mạch Đan Tăng vô cùng vui mừng. Tộc người chạy đến đây, bộ lạc và lều trại không còn nữa, từ nay về sau, chúng chỉ có thể phụ thuộc vào Đông Dương Thị. Đông Dương Trại vì vậy mà xây tường lớn bao quanh, với vị trí nước dâng thì thuyền dâng. Của cải ở nơi đây còn hơn Lô Lĩnh Châu đến hàng trăm lần. Nhưng, niềm vui của hắn chỉ được vài ngày, sáng nay, khi hắn vừa dậy ngủ thì nhận được một tin: Đông Dương Thị bị vây. Nhật Mạch Đan Tăng nghi ngờ chạy lên tường bao quan sát, mới phát hiện ra có người Hán vây Đông Dương Thị, là đội quân người Hán của Lô Lĩnh Châu. Thủ lĩnh Nhật Mạch Đan Tăng vô cùng phẫn nộ, lập tức sai người thổi kèn, triệu tập võ sĩ, ra khỏi thành quyết chiến với địch. Hắn tuyệt đối không cho phép người khác tới xâm phạm lãnh thổ của hắn, hơn một ngàn kỵ binh người Hán dám xâm phạm, từ thuở nhỏ sống trên lưng ngựa đã hun đúc cho hắn tính dũng mãnh của các dũng sĩ người Khương. Nhưng sau trận chiến, hắn mới giật mình phát hiện ra, nghìn kỵ binh đến từ Lô Lĩnh Châu, cưỡi ngựa bắn cung hơn hẳn bọn chúng, bọn chúng sống ở khu vực hỗn tạp người Hán, du canh du cư, cưỡi ngựa bắn cung tuy không thành thạo lắm, trình độ bắn cung cưỡi ngựa không bằng các bộ lạc trên thảo nguyên, song chắc chắn dũng mãnh thiện chiến hơn một nghìn kỵ sĩ trên thảo nguyên. Cũng cần phải biết rằng, Lý Quang Sầm mấy năm lưu lạc trên thảo nguyên, mang theo mấy chục người hầu, dần dần đã phát triển mạnh lên. Giữa các bộ lạc người Khương trên thảo nguyên Hạ Châu lúc đó tuy cũng xảy ra chiến tranh, nhưng địa bàn rộng như vậy lại tương đối ổn định, giữa các bộ lạc rất ít xảy ra cuộc chiến một sống một còn, chỉ có cướp đoạt đồng cỏ và nguồn nước với người Thổ Phiên, cả đời chúng không phải sống mãi trên lưng ngựa, mà chỉ chiến đấu trên lưng ngựa, trong môi trường ác liệt ấy, chúng không những không bị tiêu diệt, mà ngược lại dần lớn mạnh, có tộc người nào dũng mãnh hơn chúng? Nhưng vì cuộc sống như vậy quá gian khổ, tộc người cả ngày đều sống trong trong cảnh chiến tranh, mà tộc dân lại không ngừng lớn mạnh, dần dần bộ lạc lớn Thổ Phiên đã thức tỉnh. Lý Quang Sầm biết rằng những ngày như vậy không đáng tồn tại nữa, mà tộc lại thiếu đi một thủ lĩnh trí dũng cầm đầu, mới nghĩ trăm phương nghìn kế, nhất định phải tìm con đường ra cho tộc người này, cho chúng có một cuộc sống ổn định. Sức chiến đấu của kỵ sĩ người Hán mạnh hơn kỵ sĩ của Đông Dương Thị, nhưng dù cho như vậy, thì Đông Dương Trại vẫn chiếm lợi thế, dũng sĩ có gấp đôi quân địch, Nhật Mạch Đan Tăng dốc toàn lực lượng, đánh tan toàn bộ quân địch. Không ngờ, hai nghìn kỵ binh tinh nhuệ lao ra, quân Hán lại rút lui, lúc đang thừa dịp thắng thì lại có hai nhánh kỵ binh đánh úp hai bên. Nếu như Nhật Mạch Đan Tăng không nhanh chóng phát hiện, lập tức bảo vệ cho thủ lĩnh phía sau thì đến hắn, một thủ lĩnh của tộc người này cũng phải bỏ mạng trong trận mưa kỵ binh của hai nhánh quân đó. Hai nghìn đấu với ba nghìn, sức chiến đấu của từng binh sĩ lại hơn hẳn so với bọn chúng, hơn nữa xét về sự chuẩn bị, trận này làm sao có thể đánh được nữa? Lượng kỵ sĩ rút được về Đông Dương Thị không đến bảy trăm tên. Trận chiến tàn khốc ấy, đã đánh sập đi dũng khí của Đông Dương Trại, những người mất con, mất chồng, mất người thân kêu la khóc lóc thảm thiết, khắp nơi đều là tiếng khóc, sự kiêu căng của Nhật Mạch Đan Tăng lại một lần nữa nhắm thẳng vào bọn địch, nhưng tận đáy lòng hắn lại cảm thấy sợ hãi. Hắn phái gần trăm người thân xuất quân, thừa lúc đêm tối phá vây trốn ra ngoài, đến hai bộ lạc lớn kề gần xin chi viện, giá phải trả là hai đồng cỏ màu mỡ của Đông Dương Thị. Đồng cỏ màu mỡ này vốn là của Đông Dương Thị, hắn thực sự không nỡ làm vậy, nhưng người Hán lần này không tha cho hắn, mà hắn lại không thể chống đỡ nổi nữa, nếu không xin được quân Hạ Châu chi viện, Đông Dương Thị sẽ bị người ta diệt tận gốc, sau mươi mười năm nữa, sẽ chẳng còn ai nhớ đến ở đây đây đã từng có Đông Dương Trại và người Đông Dương Thị. Trát Tây đã về, gần trăm dũng sĩ ra ra vào vào, giờ số còn sống trở về chỉ còn có năm người. Con trai hắn Trát Tây, một chiến sĩ Đông Dương Thị dũng mãnh đã chặt đứt một cánh tay, chột một bên mắt, cả cơ thể be bét máu lết về trại, mang đến cho hắn một tin khiến hắn tuyệt vọng vô cùng: Hai bộ lạc lớn đã yên binh bất động, thấy chết không cứu. Thậm chí Trát Tây còn tự tiện quyết định nhường cho chúng bốn mảnh đất, khi nào tiếp viện sẽ cho nốt toàn bộ đồng cỏ của Đông Dương Thị, nhưng bọn chúng vẫn bặt vô âm tín. Nhật Mạch Đan Tăng ngồi trên ghế đần người ra, nghe tiếng chém giết bên ngoài tường bao, hắn không biết phải giải quyết tình cảnh này như thế nào. Quân đội người Hán đang chế tạo ra những loại công cụ tấn công tường bao. Đông Dương Trại không có thành lũy kiên cố như người Hán, không cần những công cụ quá lớn và những chiếc thang leo thì cũng có thể tiến vào trại, đêm nay, hắn còn thủ được, ngày mai thì sao? Giờ già trẻ trai gái đều được lệnh xông ra trận rồi. “Cha à, con ở trong bộ lạc Tề Phong Thị, nhìn thấy có người mang tin của Dã Ly Thị đến rồi, không phải là Dã Ly Thị đến phá rối đó chứ? Mà cũng chỉ có Dã Ly Thị mới có thể uy hiếp hai bộ lạc kia viện trợ cho chúng ta”. Trát Tây chăm chú nhìn về phía xa, nói với Nhật Mạch Đan Tăng. Nhật Mạch Đan Tăng nhìn đứa con, Trát Tây lại gằn giọng nói: “Dã Ly Thị? Tộc người của chúng ta làm gì có thù oán gì với Dã Ly Thị, chúng tại sao lại giúp người Hán? Nếu Dã Ly Thị ra tay với chúng ta, hà tất phải mượn gió bẻ măng?” Sau một lúc trầm tư, Nhật Mạch Đan Tăng ngẩng đầu lên, buồn bã nói: “Chúng ta…hiến trại xin hàng…” “Gì cơ ạ?” Trát Tây giận tím mặt: “Cha à, chúng ta không thể đầu hàng, một khi xin hàng rồi, từ nay về sau chúng ta sao có thể ngẩng mặt lên với người Hán được nữa? Các bộ lạc Hoành Sơn sẽ coi thường chúng ta, chúng ta không thể đầu hàng, thề chết cũng không xin hàng!” Nhật Mạch Đan Tăng Tăng không ngờ là đứa con trai của mình lại không biết suy nghĩ như vậy, hắn chua sót nói: “Nếu như không hàng, sẽ làm cho chúng giết tận gốc Đông Dương Thị ta. Con à, tình thế bức bách như này, sát nhập vào bộ lạc khác”. Lúc đó, Trát Khả Đặc Nhĩ tiến lên phía trước nói: “Đan Tăng đại nhân, ta có ý thế này…” “Hả?” Nhật Mạch Đan Tăng quay sang nheo mắt nhìn Trát Khả Đặc Nhĩ. Trát Khả Đặc Nhĩ nói rành rọt từng từ một: “Chúng ta…giả hàng!” *** Bích Túc cười nhạt nói: “Này đại nhân Đặc Nhĩ, Dương Hạo đại nhân chúng ta thực sự cũng không muốn xung đột vũ trang với các bộ lạc người Khương làm gì, không giấu gì ngươi, giờ đã có vài bộ lạc người Khương đầu hàng đại nhân chúng ta, đại nhân chúng ta đãi ngộ rất tốt và bình đẳng với chúng. Ngươi dẫn người ra đầu hàng, mà còn giúp chúng ta đánh lừa mở tường vây, đây là một công lớn, một khi được chuyện, chúng ta nhất định sẽ tiến cử ngươi với triều đình, triều đình sẽ cho các ngươi đặc ân, dù sao thì cũng sẽ cho ngươi một chức quan chỉ huy sứ, đến lúc đó, tại hạ gặp ngươi, cũng phải cúi đầu mà gọi đại nhân đó chứ”. “Không dám, không dám, Bích đại nhân quá khách khí rồi”. Trát Khả Đặc Nhĩ cười nói: “Dưới thiên binh thiên uy, Trát Khả Đặc Nhĩ chỉ mong có thể bảo toàn tộc người của mình, chức quan thì thực là không dám nghĩ đến”. Hắn lo lắng quay đầu lại nhìn, nghi ngờ nói: “Bích Túc đại nhân, giờ đã muộn rồi, ta mang các ngươi đi đánh trại, trong bóng đêm, các ngươi chẳng phải thừa dịp mà mai phục tấn công trại sao? Chỗ ta chọn cách cửa tây rất gần, bên cạnh lại toàn là rừng cây, dễ mai phục vô cùng, mà các ngươi muốn ta đưa đến đó kiểu gì?” Bích Túc cười nói: “Cái này ngươi không hiểu sao? Thực ra ta cũng không hiểu, đại nhân chúng ta nói, vào rạng sáng mới là lúc mọi người buồn ngủ nhất, đợi lúc trời sắp sáng thì đi đánh trại, lúc đó chúng ta càng dễ dàng đoạt được Đông Dương Trại. Các ngươi cứ ở trong cốc nghỉ ngơi đi, Mộc Ân đại nhân chúng ta chuẩn bị rất nhiều rượu thịt cho các ngươi rồi, các ngươi cứ ăn no, đợi đến khi trời sắp sáng chúng ta sẽ hành động”. “Được, được, Mộc tướng quân thật cao minh, thực sự là thật cao minh…” Trát Khả Đặc Nhĩ quay đầu lại nhìn hơn hai trăm tên, thầm lo lắng, trong rừng ngoài tây môn, có rất nhiều cung tên mai phục, đợi hắn dẫn người Hán đi đánh trại, lúc đó sẽ đột nhiên ra tay, dựa vào tài bắn cung của chúng, tuyệt đối sẽ thắng, sẽ giết chết hơn nửa lũ người Hán chưa vào trại. Đến lúc đó đóng cửa trại vào, bắn tên giết chết lũ người Hán tấn công trại, lúc đó tình thế địch ta sẽ xoay chuyển, ai bảo Mộc tướng quân ngu xuẩn kia tự cho mình là thông minh, nào thì đợi rạng sáng tấn công, xem ra đợi lát nữa tìm được cơ hội, phái người chạy về báo tin mới được. Trát Khả Đặc Nhĩ đang nghĩ ngợi, Bích Túc đột nhiên ôm bụng cười nói: “Ôi chà, ta hơi mót, các ngươi đợi lát, ta sang bên kia đi đại tiện một lúc”. “Vâng, Bích Túc đại nhân xin cứ tự nhiên”. Trát Khả Đặc Nhĩ mừng rỡ, vội đồng ý, chờ Bích Túc chui vào bụi cỏ, hắn lập tức gọi một tên đến, vội vàng dặn dò: “Ngươi mau nấp vào trong bụi cỏ đi, lát nữa chúng ta đi trước, ngươi lẻn về, nói với Đan Tăng đại nhân là người Hán vào rạng sáng sẽ đi tấn công thành, bảo hắn bảo vệ cẩn thận”. “Vâng”. Tên đó thi lễ, rồi nhanh như mèo trốn vào trong bụi cỏ, Trát Khả Đặc Nhĩ cười quay đầu sang nhìn vào bụi cỏ mà Bích Túc đang ngồi xổm. Đợi một lát, hắn bỗng hét ầm ĩ lên: “Bích Túc đại nhân, Bích Túc đại nhân”. Bích Túc ngồi chồm hỗm vẫn không nhúc nhích, Trát Khả Đặc Nhĩ mặt tái mét, bước qua đó, đến gần thì hắn không khỏi ngạc nhiên, quần áo vẫn còn đó, trùm vào cây cỏ cao bằng nửa người, nhưng không thấy bóng dáng Bích Túc đâu nữa. “Không xong rồi, mau tản ra, chuẩn bị lùi lại”. Trát Khả Đặc Nhĩ hô hét ra lệnh, tộc dân nghe vậy nháo nhác chạy loạn lên, lúc này sau sườn núi có mấy chục tên xuất hiện, đôi mắt hung dữ nhìn bọn chúng, rồi cầm cung bắn tên rào rào. Tình thế nguy cấp, bên phải, phía trước, phía sau đều có vô số tên người Hán cầm cung nhảy từ trong bụi cỏ ra, bao vây dày đặc bọn chúng. Trát Khả Đặc Nhĩ giận dữ, một tên đàn ông râu quai nón cầm thanh đao bầu xuất hiện ở cửa cốc, hét lớn: “Lũ chó chết, dám giả hàng hả, giết không tha!” Trát Khả Đặc Nhĩ nhận ra người đàn ông to lớn đoàn luyện sứ Mộc Khôi, vội kêu lên: “Tướng quân chờ đã, ta thực sự thành tâm thành ý đầu hàng Dương Hạo đại nhân, tướng quân không thể giết chúng ta được”. Mộc Khôi ngửa mặt lên trời quát to: “Trát Khả Đặc Nhĩ, ngươi nghĩ rằng chúng ta đều là người Hán sao, mặc quần áo vậy chỉ là để che mắt bọn người qua đường mà dễ hành động thôi. Ha ha ha…trò mèo của ngươi, che mắt được người ngoài, chứ sao che mắt nổi ta?” Rồi hắn giơ đao lên, quát to: “Người Khương ta đều ký hiệp ước liên minh, ai cũng thật thà với Bạch thạch đại thần, ngươi đến hàng, vì sao lại không dám nhắc đến Bạch thạch đại thần vậy? Bộ lạc người Khương ta, trong nhà không có đao, nhưng nhà nhà có cung tên, còn các ngươi người người đeo đao bên sườn khi lâm trận, cung tên thì có là bao? Ngươi đến đầu hàng, đêm tối xông vào thành, ai cũng không thể chăm chút chu toàn cho người bên cạnh, nhưng người ngươi mang đến đều là những tên trai tráng, không có một ai là người nhà ngươi cả, hơn nữa cũng không thấy đám người đó lo lắng gì”. “Ta…” Trát Khả Đặc Nhĩ chưa nói được lời nào, Mộc Khôi đã quát to: “Giết!” Những mũi tên được bắn ra, cách mười hai mươi trượng, tiếng bắn tên vèo vèo, ngực trái của Trát Khả Đặc Nhĩ bị trúng một tên, Trát Khả Đặc Nhĩ ngã sấp xuống, mặt đập thẳng vào đất, bên tai chỉ nghe thấy tiếng tên bắn không ngừng, bội đao đeo bên người không có cách nào rút ra mà ném về phía bọn địch, tất cả đều lần lượt ngã xuống. Sau một lát, không còn một tên nào còn đứng được nữa, tất cả đều nằm rạp xuống đất, các tay cung tiễn ngừng bắn, vác cánh cung trên vai, lệnh cho người đi dò xét, còn thấy tên nào còn hơi thở thì giết cho bằng chết, bọn chúng tiến đến phía trước, đi dò xét từng tên một, thấy tên nào còn thoi thóp hơi thở thì cho một nhát, hoặc đâm vào cổ họng, hoặc đâm vào ngực như giết gà, đến khi không còn tiếng thở nào nữa, không gian yên ắng trở lại mới thôi, Bích Túc ngồi vắt vẻo trên cây thấy cảnh tượng đó mà mặt cũng biến sắc. Mộc Khôi lại cao giọng hét: “Để lại một đội quân thu dọn chiến trường, những người khác thì theo ta tiến đánh Đông Dương Trại tây môn, mai phục người ngựa của Đông Dương Thị, không cho chúng trốn ra ngoài…” Mấy trăm bộ lạc hùng mạnh của Đông Dương Thị đã bị tiêu diệt, khi Dương Hạo đến nơi, tất cả đã bị Mộc Ân giết chết, những bãi đất đẫm máu, xác người chết la liệt. Mộc Ân trước mặt con gái mình là một người cha hiền lành, nhưng khi đứng trước tộc người của mình là một vị trưởng bối dũng mãnh; Đứng trước Dương Hạo Lý Quang Sầm là một người hầu trung thành, nhưng đứng trước quân địch lại là một tên sát nhân, trái tim của hắn như làm bằng sắt vậy. Những lần bỏ mạng hụt trên thảo nguyên đã tôi luyện cho hắn tính cách đặc biệt này, mỗi chiến sĩ trong bộ lạc dường như đều giống hắn, giống một con sói, đối với đồng bọn thì có tình có nghĩa, đối với quân địch thì có thể giở bất cứ thủ đoạn tồi tệ nào. Lúc chúng phục tùng nghe lệnh, can tâm tình nguyện trung thành với “Lang vương” Dương Hạo, nhưng trong con mắt lại lộ vẻ không bằng lòng. Dương Hạo có thể bày mưu nghĩ kế đưa ra những phán đoán đúng đắn, cũng có thể phân rạch ròi Đại nhân và Tiểu nhân trước mặt Đường Diễm Diễm, nhưng hắn cuối cùng cũng vẫn thiếu sự tôi luyện trên chiến trường, khi hắn đối mặt với hiện trường này, hắn không thể không bị tình cảm chi phối. Nhưng hắn không nói gì cả, những điều mà Mộc Ân làm mới đúng với những nguyên tắc tồn tại trên thảo nguyên: Ngươi muốn thắng được quân địch, ngươi cần thích ứng được với những hình phạt mà khi thất bại ngươi sẽ phải chịu. Nếu như Dương Hạo là kẻ thất bại, hắn sẽ không được phân thiệt hơn với quân địch trên chiến trường, nên hắn chỉ có thể làm theo nguyên tắc này, thích ứng với nó, không được nói chuyện nhân nghĩa với bọn sói dốt nát. Tất cả công cụ, vũ khí, của cải mà Nhật Mạch Đan Tăng Đông Dương Trại tập trung trong phòng đều đã được dọn sạch sẽ, tất cả đã bị san bằng. Đông Dương Trại đã biến thành những mảnh phế liệu, hắn muốn cho tất cả những ai đi qua đều phải nhớ chuyện gì đã xảy ra ở đây, nếu mạo phạm đến Lô Lĩnh Châu thì sẽ phải chịu hình phạt như thế này. Dương Hạo đi ra từ nhà lớn của Nhật Mạch Đan Tăng Đông Dương Trại, nói với Mộc Ân đi sau: “Bảo Mộc Khôi áp giải đàn bà và trẻ em về trước, ngươi và Bích Túc ở lại đây, đưa ta đi gặp Tề Phong Thị, Ma Cô Thị, lần này tấn công bộ lạc Đông Dương Thị, bọn họ án binh bất động, không giúp viện trợ, tuy nói là Dã Ly Thị ra mặt uy hiếp, song cũng coi là Lô Lĩnh Châu ta nhận một phần ơn huệ của họ. Công của Mộc Ân cũng lớn, công của Mộc Khôi cũng lớn, song khi nhắc đến chiến thắng này, nó không chỉ là công của chúng ta mà còn có công của bọn họ nữa. Công của hai bộ lạc này không nhỏ, ta sẽ mang lễ vật sang biếu, mời bọn họ cùng với các bộ lạc người Khương Hoành Sơn đến tập hợp bộ lạc Dã Ly Thị, bắt chước chuyện liên minh Đảng Hạng Thất Thị, tạo mối quan hệ tốt với họ. Thấy Mộc Ân ngạc nhiên, Dương Hạo cười nói: “Ha ha, đương nhiên là rất đông rồi, các bộ lạc xa gần kéo dài hết núi Hoành Sơn là không thể lập cộng chúa, ta phải thống nhất lợi ích, xóa đi sự tàn bạo của họ, ít nhất cũng phải đứng về phía chúng ta. Giờ chỉ cần bọn họ không gây phiền phức với ta thì coi như chúng ta đạt được mục đích rồi”. Nói đến đây, hắn đột nhiên dừng bước, nhìn về phía một vài tên bị các binh sĩ trông coi, những người này có nam có nữ, có già có trẻ, là tộc người Đông Dương Thị mà lúc nãy hắn nhìn thấy trong trại, những người này quần áo tả tơi, da xanh xao, giống như một đám dân tị nạn. Điều mà Dương Hạo cảm thấy kì lạ là những thanh niên trong Đông Dương Trại đều đã phải đền tội, vậy mà những tên ở đây phần lớn lại là thanh niên. Thấy hắn nhìn chăm chú về phía đó, Mộc Ân giải thích: “Đại nhân, những tên này không phải là tộc người của Đông Dương Thị, bọn chúng thuộc những bộ lạc khác, sau những trận chiến thì bị Đông Dương Thị bắt về làm tù binh, làm nô lệ cho Đông Dương Thị, làm việc rất cực khổ. “Hả?” Dương Hạo chớp mắt, dặn dò: “Bảo người rút lui, không cần đối xử với bọn chúng như nô lệ đâu, tộc người Đông Dương Thị đã bị các ngươi bắt được, chi bằng theo quy tắc của các ngươi mà cho bọn chúng làm dân thường, cho chúng dời đến Lô Lĩnh Châu ta, làm dân của ta, Lô Lĩnh Châu sẽ sắp xếp ổn thỏa cuộc sống cho bọn chúng”. Ánh mắt khó hiểu của Mộc Ân nhìn Dương Hạo, nhưng vẫn chấp hành mệnh lệnh của hắn, xua tay cho các sĩ tốt lui ra, lớn tiếng truyền lại mệnh lệnh mà Dương Hạo vừa nói, các nô lệ nghe xong vừa mừng vừa sợ, sau một lúc rối loạn liền quỳ xuống bái Dương Hạo, mồm lẩm bẩm nói gì đó, Dương Hạo qua lại với người Khương nhiều, tuy nghe không hiểu bọn chúng nói gì, nhưng cũng vẫn biết có ý là cảm ơn, ca ngợi hắn. Có một tên cao ráo quỳ xuống ngay chân hắn, tên này phải cao hơn người ta hai cái đầu, Dương Hạo đặc biệt chú ý đến hắn, hắn rất khôi ngô, hai bên tóc mai hơi nâu nâu, da ngăm đen. Tên này cũng giống như các tên khác quỳ xuống cảm ơn, thỉnh thoảng lại vụng trộm liếc nhìn Dương Hạo, khi bắt gặp ánh mắt của Dương Hạo nhìn hắn, hắn hoảng sợ, cúi gằm mặt xuống, không dám ngẩng đầu lên nữa. Dương Hạo mỉm cười nói: “Các ngươi không cần cảm ơn ta. Thiên hạ này là của Đại Tống, các ngươi cho dù là người Hán hay người Khương, đều là con dân của Đại Tống. Xảo trá, ngoan cố như Đông Dương Thị, bản quan mới đưa ra hình phạt nghiêm khắc như vậy. Chỉ cần các ngươi theo nề theo nếp, tuân thủ vương pháp, bản quan tuyệt đối không làm khó các ngươi. Đứng cả lên đi”. Dương Hạo vỗ tay, an ủi: “Các ngươi không cần câu thức, Đông Dương Trại sẽ không còn tồn tại nữa, bản quan muốn đưa các ngươi đến Lô Lĩnh Châu, tới đó, các ngươi sẽ không là nô lệ nữa, cho dù chăn thả, săn bắt, đánh cá hoặc làm việc gì đó kiếm kế sinh nhai, bản quan nhất định sẽ sắp xếp thỏa đáng cho các ngươi”. Tay những tên này đều là vết chai sạn, vết chai ấy rất cứng, dày hơn da thịt rất nhiều, không biết bình thường làm những việc gì, nghe Dương Hạo nói vậy, bọn chúng chỉ gật đầu, tỏ vẻ đồng ý, Dương Hạo cười với bọn chúng rồi qoay người đi. “Đại nhân, lũ tù binh ấy, làm nô lệ là được rồi, đại nhân không nên đối xử với chúng khách khí như vậy”. Đi được một quãng, Mộc Ân mới nói với Dương Hạo. “Bọn chúng đều là người Khương Hoành Sơn, Lô Lĩnh Châu muốn có chỗ đứng ở đây, thì phải kết giao được với người ở đây. Bản phủ qua lại với các bộ lạc chính là mục đích này. Chỉ có kết giao, thân thiết với dân chúng thì mới có được sức mạnh, thông qua những người này, sẽ có cầu nối với muôn dân”. Mộc Ân nghĩ một lúc, ngộ ra điều gì đó rồi nói: “Đại nhân nói vậy là…” Đúng lúc này, Điềm Tửu chạy từ đâu đến, hét lớn: “Cha, ta tìm được một giống dưa, mang về trồng, mùa hè sang năm sẽ có quả ăn”. Dương Hạo nhìn vào tay nàng thấy hạt giống dưa hấu, nghĩ đến khi ở Đinh gia, mọi loại dưa đều có, nhưng xem ra dưa hấu đến giờ vẫn chưa được thịnh hành ở Trung Nguyên. Số phận! Thật là kỳ diệu, nếu ta không đến thế giới này nhìn thấy giống dưa hấu này, hôm nay sẽ thành thế nào nhỉ? Ở Trung Nguyên chỉ cần trồng giống dưa này, bán qua ngày mà sống. Dương Hạo nghĩ thầm rồi tự cười, Mộc Ân lại không xem giống dưa đó, lườm Điềm Tửu: “Không biết lớn biết nhỏ gì cả, đại nhân ngay trước mặt mà không biết chào”. Điềm Tửu lè lưỡi, nhìn trái nhìn phải không thấy ai, liền thi lễ: “Điềm Tửu bái kiến thiếu chủ”. Mộc Ân thấy thái độ đó của nàng, lắc đầu hỏi: “Bắt được những tên bỏ trốn chưa?” Điềm Tửu lắc đầu nói: “Chưa ạ, chúng con không thuộc địa bàn nơi đây, chúng chạy lung tung trong rừng, giờ vẫn không thấy bóng dáng đâu, chúng con chỉ bắt được một tên bị thương, chạy mất hơn hai mươi tên, trong đó có Trát Tây con của Nhật Mạch Đan Tăng, nhưng hắn đã chặt đứt một cánh tay, chột một bên mắt, hắn sẽ chẳng sống được lâu đâu”. Dương Hạo nghe vậy vội hỏi: “Sao, cá lọt lưới hả?” Mộc Ân nói: “Vâng, Trát Tây vì bị thương, lúc ấy chỉ mai phục bên ngoài và phía trước trại, mà hắn lại nghỉ ngơi ở phía sau trại. Khi chúng ta tấn công trại, hắn biết không thể làm gì được, liền cùng một vài tên chạy trốn”. Điềm Tửu cướp lời nói: “Nhưng chỉ có mười hai mươi tên chạy trốn thôi, không quan trọng”. Mộc Ân ngắt lời nói: “Diệt cỏ phải diệt tận gốc. Xưa cha ngươi chạy đến địa bàn người Thổ Phiên, giờ đã có ba nghìn kỵ binh tinh nhuệ đó thôi, không thể nói là không quan trọng được”. Dương Hạo gật đầu, chậm rãi nói: “Tiếp tục truy tìm chúng, nhất là…phải xem xem có bộ lạc nào dung chứa bọn chúng không…” Ánh mắt Mộc Ân sáng lên, trầm giọng nói: “Đại nhân yên tâm, thuộc hạ hiểu”. Người của hai bộ lạc Tề Phong Thị, Ma Cô Thị vô cùng khách khí với tri phủ người Hán Dương Hạo, là hai bộ lạc lớn của Hoành Sơn, dù chúng không lệ thuộc vào Dã Ly Thị, nhưng mối quan hệ giữa chúng vẫn rất mật thiết. Dã Ly Thị phái người mang tin, cảnh cáo bọn chúng không được đếm xỉa đến, tuyệt đối không được nhúng tay vào cuộc chiến giữa Lô Lĩnh Châu và bọn cướp bóc Lô Lĩnh Châu, thì bọn chúng cảm thấy rất lạ. Bình thường tộc người chúng nhìn thấy bộ lạc khác bị xâm chiếm thì cũng phải ra tay viện trợ, nhưng lại bị thủ lĩnh của hai bộ tộc ngăn lại. Quả nhiên không sai, người Hán từ trước đến nay chưa từng có phản ứng gì, chưa từng có sự phản kích trả thù nào, giờ phản kích lại, khiến người ta ngạc nhiên, kết cục của Đông Dương Thị, đến bọn chúng nhìn cũng cảm thấy ghê sợ. Giờ thấy Dương Hạo cười ha ha, tóm lại khi tri phủ Lô Lĩnh vui vẻ, hai thủ lĩnh cũng phải cảm thấy kính nể hắn. Cái được tôn trọng trên thảo nguyên chính là thực lực, Dã Ly Thị có tầm ảnh hưởng rất lớn với họ, ngăn cản chúng hành động, lại không thể để chúng kính nể một người, sự kính nể này chỉ có thể xuất phát từ những hành vi mà người này thực hiện. Dương Hạo giờ đã có cái này. Lời mời của Dương Hạo, bọn họ vui vẻ đáp ứng. Nếu địa điểm mời là Lô Lĩnh Châu, thì họ hơi lo lắng, nhưng nếu như họp ở bộ tộc Dã Ly Thị Hoành Sơn thì vấn đề an toàn không phải lo lắng. Hai người đồng ý đi dự, hơn nữa còn thông báo cho các thủ lĩnh của bộ tộc khác cùng có thái độ hợp tác. Dương Hạo đến đây chính là để mời hai vị thủ lĩnh này, thông qua họ, sẽ liên hệ được với càng nhiều thủ lĩnh, bày tỏ được thiện chí của mình. Không có chiến tranh không mục đích, cuộc chiến này phục vụ mục đích chính trị, mục đích kinh tế, trận chiến này bản thân đã đạt được kết quả mà mình mong muốn, hơn nữa có một lượng dân cư, của cải dồi dào, giờ lợi dụng kết quả này, từng bước mở rộng ảnh hưởng đến càng nhiều lợi ích chính trị và lợi ích kinh tế. Nay đạt được mục đích rồi, Dương Hạo liền từ biệt hai vị thủ lĩnh, mang theo Bích Túc, Mộc Ân và gần nghìn thị vệ trở về Lô Lĩnh Châu. Trên đường trở về, cờ chữ Dương tung bay trong gió, dù những tên không biết chữ thì cũng nhận ra được cờ “Dương”, con đường biên giới với Lô Lĩnh Châu yên bình làm sao, phía trước phải quẹo qua một ngọn núi, thì đến cửa Lô Lĩnh Châu. Bên trái là cây cỏ và núi nham thạch, bên phải là thảo nguyên rộng mênh mông, tầm mắt phía trước có hạn, con đường bên núi kéo dài về bên trái, mới có thể thấy con đường phía trước. Người đi dưới chân núi phải đi vòng vèo. Các thị vệ đi trước dẫn đường đã đến chỗ ngoặt, ghìm ngựa lại nhìn. Lúc này, trên vách núi có vài tên đứng dậy, giương cung bắn tới tấp vào dòng người phía dưới. Dương Hạo chạy vội, lấy lại bình tĩnh, nhìn trái nhìn phải, có vài tên đã bị hắn phát hiện, xung quanh hắn đều là những kỵ sĩ đang bảo vệ hắn. Những tên này nép vào vách núi, chỉ dám liếc mắt nhìn, dò xét vị trí mà hắn đứng, rồi thấp thỏm đứng lên bắn nhưng bắn không chuẩn, chỉ có hai mũi tên được bắn tới thì lại bị Dương Hạo dùng kiếm cản được. “Bảo vệ đại nhân!” Vài tên thị vệ chạy đến phía trước Dương Hạo, giơ mấy lá chắn lên che chở cho Dương Hạo, đội ngũ nhất thời loạn lên. Trên núi có một tên, miệng hắn ngậm một thanh đao, một tay men theo vách núi nhảy xuống dưới khiêu chiến, có sáu bảy hòn đá rơi xuống theo, vết thương ở cơ thể hắn được băng sơ sài, hắn ngậm đao nhảy xuống chỗ Dương Hạo. Tên này cụt một tay, chột một mắt, chính là tên đào tẩu Trát Tây. Những tên khác cũng nhảy từ trên núi xuống, dũng mãnh không sợ chết lao về phía Dương Hạo. “Za” Dương Hạo đẩy mạnh tấm chắn, nhảy xuống ngựa, cầm kiếm tiến đến tên Trát Tây. Kiếm thuật là kiếm thuật, giờ không cần đẹp mà chỉ cần giết được địch, kiếm thuật mà bản thân tôi luyện được chỉ được nâng cao khi tham gia vào trận chiến. Cánh tay còn lại của Trát Tây cầm đao đánh về phía hai tên thị vệ, thế như hổ vồ, đao được vung lên chém đứt hai chân ngựa, chiến mã hí vang, hắn chạy nhanh đánh về phía Dương Hạo. Mộc Ân thấy gặp thích khách, không nghĩ ngợi gì giương cung ngắm bắn, hàng loạt mũi tên bay ra khỏi cung của hắn, tiếng tên xé gió bay vù vù về phía địch. Những tên thích khách còn chưa nhảy xuống đất thì đã bị tên bắn trúng, có sáu bảy tên bị bắn chết trên vách núi, những tên nhảy xuống không đến mười tên, rồi bị lẫn trong biển người. Dương Hạo khẽ quát một tiếng, kiếm được rút ra, kiếm giơ lên “Keng” chạm vào đao của Trát Tây, nhằm hướng cổ họng hắn mà đâm. Lúc này có một tên thích khách khác nhảy tới gần, Dương Hạo đổi thế kiếm, chỉ nghe thấy “Phụp” một tiếng, mũi kiếm đã đâm vào tim của tên thích khách, lúc đó, đao của Bích Túc cũng đâm vào bụng tên thích khách đó. Trát Tây nhận một kiếm của Dương Hạo liền lùi lại, lảo đảo vài bước, hai mắt đỏ ngầu, đánh như điên tới, trong chớp mắt hắn đã bị chiến sĩ dũng mãnh bên cạnh Dương Hạo cho một đao, đâm hai nhát, tấn công không có chút lực nào, người hắn đẫm máu, mắt nhìn Dương Hạo hằn học. Dương Hạo đổi thế kiếm như bay, nghiêng người xuất kiếm, nhanh chóng đâm một nhát vào ngực Trát Tây, Trát Tây không hề đỡ kiếm, ngược lại hắn còn vọt tới, bất chấp liều mạng chết cũng không để cho Dương Hạo đâm đến chết, Dương Hạo giật mình, không đoán được hắn lại có cách đánh này. Dương Hạo lập tức lui về phía sau, lúc này Trát Tây cũng lui lại phía sau. Chết chắc rồi mà vẫn còn lui lại phía sau được sao? Dương Hạo vung kiếm lên phía trước ngực, nhìn chằm chằm vào tên thích khách, lại nhìn thấy trong đám người có hai móc câu xuất hiện, móc vào hai đùi của Trát Tây kéo lại. Có năm sáu tên đứng bảo vệ Trát Tây, Dương Hạo nhướn mũi, lắc đầu: “Lũ người này đứng trước ta ngoan hiền như cừu, nhưng khi thấy có người chết, thì động tác nhanh nhạy hẳn lên. Những tên còn xót lại của Đông Dương Thị đã bị các chiến sĩ dũng mãnh bao vây, như bảy tám con sư tử xâu xé một con linh dương. Sau khi giết xong bọn chúng, Mộc Ân vội vàng chạy tới trước mặt Dương Hạo, vội nói: “Hạ quan đáng trách, đã làm đại nhân sợ hãi”. “Không sao, như này ta cảm thấy hài lòng lắm rồi”. Dương Hạo cười, hắn không sợ đám người này đánh úp mà chỉ sợ bọn chúng chạy mất. Nếu chúng được ăn cả ngã về không, thì không có gì phải sợ hãi cả. Đông Dương Thị đến tận đây, cuối cùng cũng bị hắn xóa sạch dấu vết. Dân chúng trong cốc và những thương nhân còn lại trong cốc không dám ra ngoài đến lúc thấy tri phủ đại nhân trở về. Phản kích của quân đội Lô Lĩnh Châu làm cho bọn họ cảm thấy hãnh diện, nếu như nói những dân chúng này ủng hộ Dương Hạo, vốn chỉ là ân tình đối với hắn, giờ mới là quyết một lòng vì hắn vì hắn là người luôn tình nguyện hy sinh tính mạng mình. Trong mắt họ, Dương Hạo không chỉ là quan phụ mẫu, mà còn là một người trụ cột chính của đại gia đình bọn họ, họ tin tưởng và không nghi ngờ Dương Hạo bất kỳ vấn đề gì, vì Dương Hạo làm mọi điều đều muốn tốt cho họ. Đội quân của Dương Hạo xuất hiện ở cửa cốc, đám người hoan hô rền vang, Dương Hạo dặn dò với đội quân: “Chuyện bị tập kích không được để lộ”. Rồi mỉm cười nói: “Đi thôi, dân chúng đang chào đón ta và các ngươi, được dân chúng ủng hộ ta cảm kích vô cùng, mỗi chiến sĩ được tạo nên bởi máu tươi và tính danh, các chiến sĩ hãy giữ vững tinh thần này, nhận sự chào đón của bách tính môn dân”. “Đại nhân, phủ đài đại nhân!” Lý Ngọc Xương chặn trước ngựa, hơi xấu hổ nói: “Ta thay mặt toàn thể thương nhân mời rượu đại nhân để tỏ lòng cảm ơn, dùng cốc thì tầm thường, dùng bát thì không được…vậy ta dùng chiếc bình này đừng rượu. Tuy chiếc bình này không lớn lắm, chí ít cũng có thể chứa được năm lạng rượu, Dương đại nhân uống xong rồi mới vào cốc có được không?” Rượu này thực sự rất ngon, nó vốn là rượu mà Lý Ngọc Xương để lại chút ít uống, vừa nhìn thấy Đường Diễm Diễm đứng cạnh vại rượu, dặn dò Lý Ngọc Xương bảo hắn uống càng nhiều càng tốt, Lý Ngọc Xương không hiểu ra làm sao, nhưng cũng đành đồng ý. “Đại nhân vì bảo vệ sự bình yên của Lô Lĩnh Châu, bảo vệ sự an nguy của dân chúng, tự mình xuất chinh, diệt trừ bọn trộm cướp, càng vất vả thì công lao càng lớn, ta nhận trách nhiệm mà dân chúng và các thương nhân giao cho là mời rượu đại nhân bày tỏ sự cảm ơn”. Lý Ngọc Xương vung tay lên, dân chúng và các thương nhân cùng hò vang, đưa từng bát rượu ngon ra mời các chiến sĩ, còn Lý Ngọc Xương mời rượu Dương Hạo bằng chiếc bình ngọc. Dương Hạo vội nhảy xuống ngựa, hai tay nhận lấy bình rượu, trong lòng sinh nghi: “Quái, người khác dùng bát, sao lại cho ta cái bình này? Chẳng lẽ là để phân biệt với đám binh sĩ?” Trong đám người, khuôn mặt nhỏ nhắn của Đường Diễm Diễm ửng đỏ, hai mắt sáng lên nhìn hắn cầm bình rượu, thầm hét: “Uống! Uống! Uống!” “Các vị tướng sĩ, tính mạng dân chúng Lô Lĩnh Châu ta đều nhờ có các tướng sĩ mà được bảo toàn, đã báo được cái thù cho môn dân, nay các tướng sĩ trở về, mời rượu ngon, nói chuyện biểu thị lòng biết ơn, mời mọi người, cạn!” Lý Ngọc Xương nói xong, cầm bát rượu ngửa cổ uống, “Ực” uống cạn bát rượu. Đàn ông đất bắc có mấy ai không biết uống rượu? Huống chi nói đến Dương Hạo và đám thị vệ đều từ Trung Nguyên đến, càng coi rượu như tính mạng mình. Lý Ngọc Xương lấy ra rượu ngon năm xưa, chỉ cần ngửi mùi rượu thôi đã làm người ta tiết nước miếng, vừa nhìn thấy Lý Ngọc Xương uống cạn bát rượu, các tướng sĩ cùng hưởng ứng uống. Dân chúng vỗ tay hoan nghênh, bọn họ vui mừng khôn xiết, bát rượu ngon, lòng càng ngọt. Nhưng Dương Hạo lại cảm thấy khó xử, sao lại là bình rượu, hắn chau mày nhìn “Bát rượu”, dân chúng đang tha thiết nhìn hắn uống, không thể chối từ, hắn giơ bình lên, uống từng ngụm. Chỉ uống được nửa bình thì dừng lại không uống nổi nữa, cũng may đây là cái bình, không sợ người ta nhìn thấy là chưa uống hết, Dương Hạo ngửa đầu, làm bộ dáng uống cạn rượu, sau đó đưa bình rượu cho Lý Ngọc Xương, cười nói: “Đa tạ Lý viên ngoại, đa tạ bà con. Bảo đảm sự an nguy của dân là trách nhiệm của ll đoàn luyện ta, mọi người thực sự quá khách khí, giờ ta và các tướng sĩ đã trở về rồi, cũng muốn nghỉ ngơi chút, mọi người cũng có nhiều việc phải làm, mau trở về đi!” Dương Hạo chắp tay nói lời cảm ơn với dân chúng, rồi quay sang nháy mắt với đoàn luyện phó sứ Lý Quang Sầm, hai người nhảy lên ngựa, lại một lần nữa chắp tay bái kiến bách tính môn dân, rồi thúc ngựa đi. Lý Ngọc Xương đứng ở ven đường, vui mừng nhìn các quân sĩ vào cốc, Đường Diễm Diễm lòng tràn ngập niềm vui đứng cạnh hắn, chộp lấy chiếc bình. Lý Ngọc Xương ngẩn người ra, thấy nàng, ngạc nhiên nói: “Diễm Diễm, cháu làm gì vây?” Đường Diễm Diễm vô cùng vui sướng, làm mặt quỷ với hắn rồi cười nói: “Cậu à, cậu làm việc của cậu đi, cứ kệ cháu, lát nữa cháu về”. Dứt lời nàng lẩn vào đám người, không biết là đi đâu. Lý Ngọc Xương lắc đầu cười, đứa cháu gái này của hắn như con ngựa hoang vậy, từ nhỏ đã học được các thói xấu của các trưởng bối Đường gia, hắn hết cách đối phó với đứa cháu ngang ngược này. Đường Diễm Diễm cầm chiếc bình, chạy đến chỗ không có người, trốn vào phía sau của khối nham thạch, giơ bình lên lắc lắc, nghe thấy trong bình vẫn có tiếng nước, Đường Diễm Diễm tiu nghỉu nói: “Không uống hết rồi…” Nàng nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi lại nở nụ cười nói: “Bà nội chỉ nói chiếc bình này để khấn thầy cúng, làm phép, chỉ cần dùng nó uống rượu là được, mà còn chưa nói uống nhiều hay ít, hì hì…cho dù uống một ngụm cũng có tác dụng rồi”. Nàng nuốt nước bọt, nhìn vào chiếc bình, rồi rót rượu còn lại trong bình xuống đất, sau đó trợn mắt, ném chiếc bình về phía tảng đá. “Keng” một âm thanh vang lên, chiếc bình bắn nẩy lên cao, Đường Diễm Diễm há hốc mồm, tròn mắt nhìn chiếc bình…
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
www.tangthuvien.vn
 
Trở lên đầu trang